Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
354
Kích thước
136.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
794

Quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TRUNG HIỀN

QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ GIỮ

TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ GIỮ

TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Định hướng ứng dụng

Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh

Học viên : Nguyễn Trung Hiền

Lớp : Cao học luật, An Giang khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn

cấp theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu do chính tôi

thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Nguyên Thanh. Các nội dung,

thông tin được trình bày trong luận văn là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về

lời cam đoan trên của mình.

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2022

Tác giả

Nguyễn Trung Hiền

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TT Từ, cụm từ viết tắt Nội dung đầy đủ

1 BLHS Bộ luật hình sự

2 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự

3 CQĐT Cơ quan điều tra

4 ĐTV Điều tra viên

5 THTT Tiến hành tố tụng

6 TTHS Tố tụng hình sự

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1

CHƯƠNG 1. QUYỀN ĐƯỢC ÁP DỤNG CÁC THỦ TỤC TỐ TỤNG HỢP

PHÁP CỦA NGƯỜI BỊ GIỮ TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP.................7

1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về

quyền được áp dụng các thủ tục hợp pháp của người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp .........................................................................................................7

1.1.1. Nhận thức khái quát về quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp

pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp............................................7

1.1.2. Quy định của pháp luật về quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp

pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp............................................9

1.2. Thực tiễn áp dụng các quyền được bảo đảm thủ tục tố tụng hợp pháp

cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp...................................................16

1.2.1. Khái quát kết quả bảo đảm thực hiện quyền được áp dụng các thủ tục tố

tụng hợp pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp...........................16

1.2.2. Những hạn chế, thiếu sót trong việc bảo đảm áp dụng các thủ tục tố

tụng hợp pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và nguyên nhân 18

1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền được áp dụng các thủ tục

tố tụng hợp pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ....................23

1.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật............23

1.3.2. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp ........................................................................25

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................28

CHƯƠNG 2. QUYỀN TỰ BÀO CHỮA, NHỜ NGƯỜI BÀO CHỮA CỦA

NGƯỜI BỊ GIỮ TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP ....................................29

2.1. Nhận thức và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữ

của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp...................................................29

2.1.1. Nhận thức khái quát quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp............................................................................................................29

2.1.2. Quy định pháp luật về quyền bào chữa của người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp ....................................................................................................32

2.2. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp...............................................................................................................38

2.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp ..........................................................................................42

2.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp..........................................................42

2.3.2. Giải pháp khác bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp...............................................................................45

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................47

KẾT LUẬN..............................................................................................................48

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/7/2016 có nhiều thay đổi lớn so với BLTTHS năm 2003, trong đó

quy định về biện pháp ngăn chặn: giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Như vậy lần

đầu tiên, BLTTHS năm 2015 quy định một biện pháp ngăn chặn mới, đó là “Giữ

người trong trường trường hợp khẩn cấp”. Biện pháp này thay thế cho biện pháp “Bắt

người trong trường hợp khẩn cấp” được quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003.

Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì trong trường hợp bắt khẩn cấp, các cơ

quan có thẩm quyền được phép bắt người trước, sau đó mới gửi hồ sơ, thủ tục sang để

đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt. Tuy nhiên, Khoản 2, Điều 20 Hiến pháp

năm 2013 quy định “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định

hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát” nên việc tiếp tục giữ nguyên quy định về biện

pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp sẽ không đảm bảo được quy định của Hiến

pháp năm 2013. Đồng thời, tại Điều 58 BLTTHS năm 2015 quy định về các quyền

của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, trong đó có quyền trình bày ý kiến, trình

bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội, quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, cũng như trình bày

ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng

kiểm tra, đánh giá, quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa, quyền khiếu nại quyết

định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc

giữ người, bắt người. Quy định mới này nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật,

tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình nâng cao mức độ bảo vệ quyền con

người, quyền công dân phù hợp với Hiến pháp năm 2013.

Tuy nhiên, đây là một nhóm quyền mới quy định cho người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp, lần đầu được quy định trong BLTTHS năm 2015. Quá trình

áp dụng nhóm quyền này phải vừa bảo đảm quyền công dân, vừa không bỏ lọt tội

phạm. Qua nhiên cứu nhóm quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

được quy định tại Điều 58 BLTTHS năm 2015 và các quy định khác của luật Tố

tụng hình sự (TTHS) Việt Nam, nhận thấy có một số bất cập như sau:

Về tính thống nhất của các quy định pháp luật về đảm bảo quyền bào chữa

của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, theo tinh thần quy định tại Điều 58

BLTTHS năm 2015 thì người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là chủ thể được

quyền bào chữa nhưng lại chưa phù hợp với các quy định về hoạt động bào chữa tại

2

chương V BLTTHS năm 2015 dành cho người bị buộc tội. Việc quy định trách

nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm các

quyền cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp còn chưa chặt chẽ. Ngoài ra, một

số quy định về trình tự, các thủ tục để bảo đảm các quyền khác như được thông báo,

giải thích quyền, nghĩa vụ, quyền trình bày lời khai, quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại mình… còn chưa đồng bộ.

Từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực đến nay, qua thực tiễn áp dụng tại các

địa phương, việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một

công cụ nghiệp vụ tố tụng quan trọng trong ngăn chặn tội phạm, hỗ trợ đắc lực cho

cuộc chiến đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả cho các cơ quan tiến hành

tố tụng và người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, qua thực tiễn hoạt động tố tụng

hình sự thì việc bảo đảm các quyền cho người bị giữ người trong trường hợp khẩn

cấp còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc quy định một số quyền cho người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp chưa bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn áp dụng, ảnh hưởng

trực tiếp đến quyền, lợi ích của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây đã đặt ra yêu cầu cần thiết

nghiên cứu và nhận thức một cách đúng đắn về vấn đề bảo đảm các quyền của

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và thực tiễn áp dụng tại các địa phương.

Chính vì vậy, với tư cách là một học viên chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng

hình sự của Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, tác giả đã lựa chọn đề

tài: “Quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp theo Luật Tố tụng hình sự

Việt Nam” làm Luận văn thạc sỹ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tình hình nghiên cứu khoa học liên quan đến quyền của người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp theo quy định BLTTHS năm 2015. Có thể đây là quy định mới

lần đầu tiên được quy định trong BLTTHS, đồng thời với biện pháp ngăn chặn giữ

người trong trường hợp khẩn cấp được xây dựng trên cơ sở kế thừa từ biện pháp bắt

người trong trường hợp khẩn cấp được quy định trong BLTTHS năm 2003 nên có

thể kể đến một số công trình nhiên cứu có liên quan như sau:

Về sách, sách giáo trình nghiên cứu cơ bản về luật TTHS có các công trình

như: Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật tố tụng

hình sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), NXB Hồng Đức; Nguyễn Hòa

Bình (2016), Bảo đảm quyền con người, quyền công dân-tư tưởng xuyên suốt trong

BLTTHS năm 2015, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội; Nguyễn Hòa Bình

3

(chủ biên) (2016), Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015, NXB Chính trị

quốc gia; Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hoài (đồng chủ biên) (2018), Bình luận

khoa học BLTTHS năm 2015, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật... Những tài liệu này

cung cấp những tri thức cơ bản về TTHS nói chung, các chủ thể tham gia tố tụng

cũng như các quyền và nghĩa vụ của những chủ thể này, trong đó có người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp. Đây là những kết quả nghiên cứu cơ bản được kế thừa

để tìm hiểu sâu hơn về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Về luận văn thạc sĩ, bài viết liên quan biện pháp giữ người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp có các công trình như: Lý Thanh Sang (2018), Biện pháp giữ

người trong trường hợp khẩn cấp theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn

thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Hoàng Huế

(2016), Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo Luật Tố tụng hình sự

Việt Nam,; Phạm Thái, Đinh Văn Đoàn, Hà Ngọc Quỳnh Anh (2020), Biện pháp

giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của BLTTHS năm 2015, Kỷ

yếu Hội thảo cấp trường “Biện pháp cưỡng chế trong Tố tụng hình sự”, Khoa Luật

hình sự... Những công trình nghiên cứu này mặc dù tiếp cận người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp ở góc độ biện pháp ngăn chặn nhưng cũng có những gợi mở

có giá trị đối với việc hoàn thiện hệ thống quyền của người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp.

Về một số bài viết, tạp chí trên các trang điện tử có liên quan đến giữ người

trong trường hợp khẩn cấp như: Hoàng Đình Dũng, “Một số bất cập về biện pháp giữ

người trong trường hợp khẩn cấp”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mot -so￾bat-cap-ve-bien-phap-giunguoi-trong-truong-hop-khan-cap, (truy cập ngày 20/3/2021);

Nguyễn Anh Dũng, “Trao đổi một số vấn đề về thực tiễn áp dụng biện pháp giữ

người trong trường hợp khẩn cấp”, http://dhannd.edu.vn/trao-doi-mot-so-van-de-ve￾thuc-tien-ap-dung-bien-phap-giu-nguoi-trong-truong-hop-khan-cap-a-363 (truy cập

ngày 24/3/2021); “vướng mắc khi áp dụng quy định giữ người trong trường hợp

khẩn cấp”, kiemsat.vn/vuong-mac-khi-ap-dung-quy-dinh-ve-giu-nguoi-trong-truong￾hop-khan-cap-50926.html. ( truy cập ngày 24/3/2021).

Qua nghiên cứu các sách, giáo trình, luận văn thạc sĩ và một số bài viết, tạp

chí chủ yếu viết về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo

BLTTHS năm 2015 cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu riêng và chuyên

sâu về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của

BLTTHS năm 2015.

4

Có thể nói, những vấn đề chung về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường

hợp khẩn cấp (trước đây là bắt người trong trường hợp khẩn cấp) theo Luật Tố tụng

hình sự Việt Nam đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy các

công trình nghiên cứu trên chỉ tập trung nghiên cứu về việc áp dụng biện pháp ngăn

chặn theo quy định của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, những quy định pháp luật

TTHS Việt Nam về biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp (nay là giữ người

trong trường hợp khẩn cấp), những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn quá

trình áp dụng, những kiến nghị, giải pháp khắc phục vướng mắc, bấp cập trong quá

trình áp dụng pháp luật về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Hiện nay ít

có công trình nào nghiên cứu và đánh giá chuyên sâu, toàn diện về quyền của người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của BLTTHS năm 2015. Các công trình

nghiên cứu khác cũng chưa đánh giá đầy đủ thực tiễn thực hiện quyền của người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp. Vì vậy, tác giả xác định việc tiếp tục nghiên cứu một đề tài

toàn diện hơn về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là có ý nghĩa thiết

thực, quan trọng. Đó cũng là tính mới của công trình khoa học này.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận, pháp luật TTHS và thực tiễn

thực hiện các quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, luận văn đề xuất

một số giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện các quyền của chủ thể này. Đề

đạt được mục đích trên, phù hợp với phạm vi nghiên cứu, luận văn giải quyết các

nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Trình bày nhận thức khái quát về quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng

hợp pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyền tự bào chữa, nhờ

người bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền được

áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và

quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

- Đánh giá thực tiễn về bảo đảm thực hiện quyền được áp dụng các thủ tục tố

tụng hợp pháp đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyền tự bào

chữa, nhờ người bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại các tỉnh

An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.

- Kiến nghị các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền được áp dụng các thủ tục

tố tụng hợp pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyền tự bào chữa,

nhờ người bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan điểm nhận thức, quy định của luật

TTHS Việt Nam và thực tiễn thực hiện quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp

pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyền tự bào chữa, nhờ người

bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Về nội dung, luận văn nghiên cứu quyền của người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp gồm hai nhóm: quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp của

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa

của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Tất nhiên, còn một số quyền không

được nghiên cứu trong luận văn.

Về thời gian, từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật (ngày

01/01/2018) đến nay.

Về không gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng bảo đảm các quyền

của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp qua khảo sát các vụ án trên địa bàn 03

tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Vĩnh Long.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận:

Cơ sở phương pháp luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và

nhà nước về bảo đảm quyền con người.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở các phương pháp thu thập, phân

tích và xử lý thông tin cụ thể như:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích các nội dung

của quy định pháp luật về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, trình

bày khái quát các kết quả nghiên cứu.

- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm mới, tiến bộ về

quy định về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và các quyền của

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp theo BLTTHS năm 2015 và BLTTHS

năm 2003.

- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn như phương pháp thống kê, phương pháp

nghiên cứu tình huống điển hình (case study).

6

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Đề tài nghiên cứu đều dựa trên các quy định pháp luật tố tụng hình sự và thực

tiễn áp dụng việc bảo đảm các quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại

các địa phương. Vì vậy, đây sẽ là một công trình có thể đánh giá việc bảo vệ quyền

con người trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn

cấp; phát hiện những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của

pháp luật về giữ người trong trường hợp khẩn cấp cùng các quy định của pháp luật

khác có liên quan. Giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định và áp dụng đúng các

quy định của pháp luật về giữ người trong trường hợp khẩn cấp; góp phần hoàn

thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong thời gian tới.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu và phụ lục, Luận văn được cấu trúc thành 02 chương, cụ

thể như sau:

Chương 1. Quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp của người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Chương 2. Quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa của người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp.

7

CHƯƠNG 1

QUYỀN ĐƯỢC ÁP DỤNG CÁC THỦ TỤC TỐ TỤNG HỢP PHÁP

CỦA NGƯỜI BỊ GIỮ TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về

quyền được áp dụng các thủ tục hợp pháp của người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp

1.1.1. Nhận thức khái quát về quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp

pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

Lần đầu tiên, chủ thể người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quyền pháp

lý của họ được quy định tại Khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm 2015, cùng với chủ thể

người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định

truy nã. Với góc độ nghiên cứu của đề tài về quyền của người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp, dựa trên tính chất, đặc trưng các quyền của người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp được quy định tại Điều 58 BLTTHS năm 2015, tác giả chia thành hai

nhóm quyền tương ứng với nội dung hai chương của Luận văn để nghiên cứu, gồm:

Quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp của người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp và Quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa của người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp. Trong đó, nhóm quyền thứ nhất được đáp ứng thông qua

nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (THTT). Còn quyền tự bào

chữa và nhờ người bào chữa chủ yếu do người bị giữ chủ động thực hiện.

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những biện pháp ngăn

chặn có thời gian áp dụng ngắn nhưng cũng có tính nghiêm khắc, bởi nó ảnh hưởng

đến quyền con người, quyền công dân về tự do đi lại, kể cả trong một số trường hợp

nhất định bị ảnh hưởng quyền tự do thân thể. Việc quy định chặt chẽ các quyền

được áp dụng thủ tục tố tụng hợp pháp đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn

cấp là cần thiết và quan trọng, bởi vì:

Thứ nhất, về nguyên tắc khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải tôn trọng và bảo vệ

quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, bảo đảm tính hợp pháp trình

tự, thủ tục theo quy định.

Thứ hai, xuất phát từ địa vị pháp lý của người bị giữ trong trường hợp khẩn

cấp, giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những biện pháp ngăn chặn

được quy định tại Điều 109, Điều 110 BLTTHS 2015. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền con người, quyền công dân, có nguy cơ cao bị áp dụng các biện pháp tố tụng

8

hình sự tiếp theo và phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp cần được đảm bảo áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp.

Thứ ba, việc áp dụng đúng các thủ tục tố tụng hợp pháp làm cơ sở để người

bị giữ trong trường hợp khẩn cấp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng

thời, góp phần tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của

cá nhân.

Thứ tư, bảo đảm tuân thủ đúng pháp luật, tiến hành khách quan, toàn diện và

đầy đủ trong hoạt động tố tụng hình sự, góp phần nâng cao vai trò trách nhiệm của

Cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra.

Quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp cho người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp có các đặc trưng sau:

Một là, xuất phát từ nhu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp.

Trong đặc trưng này người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải biết, hiểu

được địa vị pháp lý của mình, các quyền được pháp luật xác lập, như biết được lý

do bị giữ, được thông báo giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp, quyền bào chữa, quyền trình bày lời khai... Từ đó lựa chọn

cách xử sự phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trong mối quan hệ với nhóm quyền bào chữa thì quyền được áp dụng các thủ

tục tố tụng hợp pháp giúp cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp biết và quyết

định sử dụng các quyền phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cụ thể thông

qua việc biết được lý do bị giữ và được cơ quan điều tra (CQĐT), cơ quan được

giao một số nhiệm vụ điều tra thông báo, giải thích thì người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp có thể sử dụng quyền bào chữa để chứng minh sự vô tội hoặc làm

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình.

Hai là, vai trò, trách nhiệm chủ yếu của CQĐT, cơ quan được giao một số

nhiệm vụ điều tra trong việc áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp cho người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp.

Trong nhóm quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp đối với người

bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thì quyền được thông báo, giải thích các quyền và

nghĩa vụ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có thể nói là tiền đề, giữ vai

trò quyết định để người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tiếp tục sử dụng các

quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bởi vì thông qua việc thông

báo và giải thích của CQĐT, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra thì người

9

bị giữ trong trường hợp khẩn cấp biết được mình được pháp luật xác lập bao nhiêu

quyền, gồm những quyền gì để sử dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Để bảo đảm quyền, lợi ích cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì vai

trò, trách nhiệm của CQĐT, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra là hết sức

quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong việc áp dụng các quyền được pháp luật

xác lập cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, cụ thể:

- Tất cả các quyền cũng như nghĩa vụ của người bị giữ trong trường hợp khẩn

cấp, cần thiết CQĐT, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra phải được thông

báo, giải thích một cách công khai và đầy đủ cho người bị giữ.

- Việc giao, nhận, đọc thủ tục tố tụng, thông báo, giải thích các quyền và

nghĩa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cần bảo đảm tính hợp pháp,

chẳng hạn như có sự chứng kiến đúng, đủ thành phần theo quy định pháp luật, ghi

biên bản rõ ràng, cụ thể quá trình thực hiện thủ tục tố tung...

Trên cơ sở phân tích sự cần thiết cũng như đặc trưng như trên, có thể đưa ra

khái niệm quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp cho người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp như sau:

Quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp cho người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp là tổng hợp các quyền được pháp luật tố tụng hình sự xác lập

qua địa vị pháp lý của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp nhằm biết, hiểu và

sử dụng các quyền cơ bản của mình và được bảo đảm thực hiện thông qua trách

nhiệm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra.

1.1.2. Quy định của pháp luật về quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng hợp

pháp của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

1.1.2.1. Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp

Theo tác giả đây là quyền chung, là điều kiện để bảo đảm thực hiện tốt các

quyền khác của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp nói chung cũng như quyền

được bảo đảm áp dụng các thủ tục tố tụng hợp pháp nên cần được nghiên cứu đầu tiên.

Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp chưa được giải thích rõ trong BLTTHS. Tuy nhiên, theo

tác giả “thông báo” và “giải thích” trong trường hợp này được diễn đạt với nghĩa:

“thông báo" là báo cho mọi người biết thông tin, tình hình về nội dung chứa đựng

thông tin có liên quan bằng lời nói hoặc bằng văn bản, còn “giải thích” là làm cho

mọi người hiểu rõ nội dung chứa đựng thông tin có liên quan cũng có thể bằng lời

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!