Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
115
Kích thước
7.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1692

Quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM HỒNG NAM

QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA

TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA

TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Định hướng ứng dụng

Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. GVC Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh

Học viên : Phạm Hồng Nam

Lớp : Cao học Luật, An Giang, Khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Quyền của người bào chữa trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên

cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.GVC Nguyễn Huỳnh Bảo

Khánh. Các số liệu ghi trong luận văn là có thật, kết quả nghiên cứu là trung thực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2022

Tác giả luận văn

Phạm Hồng Nam

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT TỪ VIẾT TẮT TÊN ĐẦY ĐỦ

01 CQĐT Cơ quan điều tra

02 ĐTV Điều tra viên

03 NBC Người bào chữa

04 THTT Tiến hành tố tụng

05 TTHS Tố tụng hình sự

06 VAHS Vụ án hình sự

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1

CHƯƠNG 1. QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ĐƯỢC GẶP NGƯỜI BỊ

BẮT, NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN ĐANG BỊ TẠM GIAM............................7

1.1. Quy định pháp luật về quyền của người bào chữa được gặp người bị

bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.................................................7

1.1.1. Quy định về quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị

tạm giữ, bị can đang bị tạm giam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 ..............................................................................................................7

1.1.2. Quy định về quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị

tạm giữ, bị can đang bị tạm giam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ..........9

1.2. Thực tiễn áp dụng về quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt,

người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam.......................................................16

1.2.1. Những kết quả đạt được ...........................................................................16

1.2.2. Những vướng mắc, hạn chế ......................................................................18

1.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế..........................................21

1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền của người bào chữa được gặp

người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam................................24

1.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến việc thực hiện quyền của

người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm

giam ....................................................................................................................24

1.3.2. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ..............................................................27

Kết luận chương 1 ...................................................................................................29

CHƯƠNG 2. QUYỀN HỎI CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG HỎI CUNG

NGƯỜI BỊ BẮT, NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN ĐANG BỊ TẠM GIAM .....30

2.1. Quy định pháp luật về quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung

người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam................................30

2.1.1. Quy định về quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung người bị bắt,

người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 ...............................................................................................30

2.1.2. Quy định về quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung người bị bắt,

người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam theo Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015 ....................................................................................................................31

2.2. Thực tiễn áp dụng về quyền hỏi của người bào chữa trong hỏi cung

người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam................................36

2.2.1. Những kết quả đạt được ...........................................................................36

2.2.2. Những vướng mắc, hạn chế ......................................................................38

2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế..........................................43

2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền hỏi của người bào chữa trong

hỏi cung người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam ................45

2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền hỏi

của người bào chữa trong hỏi cung người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang

bị tạm giam .........................................................................................................45

2.3.2. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ..............................................................47

2.3.3. Nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa, chất lượng và đạo đức nghề

nghiệp luật sư .....................................................................................................48

2.3.4. Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật đến với

người dân về quyền yêu cầu người bào chữa.....................................................50

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................51

KẾT LUẬN..............................................................................................................52

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Năm 2020 là năm đánh dấu những sự kiện đặc biệt quan trọng liên quan đến

hoạt động cải cách tư pháp, trong đó có lĩnh vực Luật sư. Đó là tổng kết 15 năm thực

hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 33 – CT/TW ngày

30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt

động của Luật sư. Theo đó, trong những năm qua, vị trí và vai trò của Luật sư ngày

càng được nâng cao, đội ngũ Luật sư được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về chuyên

môn, nghiệp vụ. Đặc biệt, với những quy định tiến bộ của Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015, thẩm quyền của người bào chữa nói chung và Luật sư nói riêng được mở rộng,

góp phần tạo nên sự phối hợp tốt giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng với người bào chữa, tạo điều kiện để người bào chữa thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn theo quy định của pháp luật, hoạt động tranh tụng của người bào chữa có những

chuyển biến tích cực, tạo không khí dân chủ tại phiên tòa. Vị thế của luật sư cũng từ đó

được tôn vinh và ngày càng được khẳng định trong đời sống chính trị, xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn tồn tại nhiều bất

cập dẫn đến quá trình hành nghề, người bào chữa chưa thể thực hiện đúng và đủ các

quyền của mình theo quy định của pháp luật. Một số cơ quan tiến hành tố tụng và

người tiến hành tố tụng vẫn còn xem nhẹ vị trí, vai trò của người bào chữa trong khi

tham gia tố tụng, đâu đó vẫn tồn tại tư duy cho rằng người bào chữa tham gia vào vụ

án là gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Mặt khác, dù Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 được ban hành với những quy định tiến bộ, mở rộng quyền

cho người bào chữa trong hoạt động tác nghiệp. Thế nhưng, các quy định này vẫn còn

mang tính hình thức, chưa đi vào thực tiễn đời sống pháp lý; một số quy định còn

chồng chéo, mâu thuẫn; các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015 liên quan đến thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bào chữa vẫn chưa được ban

hành, chất lượng tranh tụng còn thiếu dân chủ. Điều này đã và đang gây khó khăn cho

hoạt động hành nghề luật sư trong tố tụng hình sự cũng như chưa tạo được điều kiện

để người bào chữa bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành, đến nay đã có nhiều

bài viết, luận văn nói về những điểm mới tiến bộ liên quan đến vai trò của luật sư

hoặc người bào chữa ở từng giai đoạn tố tụng theo những phạm vi và mức độ

2

nghiên cứu khác nhau. Điển hình như các tác giả sách chuyên khảo, luận văn, các

bài viết có liên quan tới quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam gồm:

Về sách chuyên khảo:

- ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Mai Bộ, TS. Lê Văn Thư, TS. Nguyễn

Ngọc Hà, PGS. TS. Trần Văn Luyện, LS. Phạm Thị Thu, PGS. TS. Đỗ Thị Phượng,

LS. ThS. Nguyễn Cao Hùng (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự

2015, Nhà xuất bản Công an nhân dân; PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn (2019), Các

nguyên tắc hiến định trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp; TS.

Luật sư Phan Trung Hoài (2016), Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

Ở các tài liệu này, các tác giả đã nêu lên đầy đủ những điểm mới của Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2015, trong đó có đề cập đến điểm tiến bộ về chế định bào chữa

nói chung, quyền của người bào chữa nói riêng trong các giai đoạn tố tụng, điển

hình mở rộng chủ thể người bào chữa mới là Trợ giúp pháp lý trong trường hợp

người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý và người đại diện của

người bị buộc tội; mở rộng cơ hội cho người bị buộc tội được tiếp cận với người

bào chữa; cho phép chuyển từ thủ tục xin cấp giấy chứng nhận bào chữa cho từng

giai đoạn tố tụng sang thủ tục đăng ký bào chữa một lần trong suốt quá trình tố

tụng; mở rộng các quyền của người bào chữa, trong đó có quyền được chủ động

gặp, hỏi người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, chưa có tài liệu

nào đi vào phân tích chuyên sâu về quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự.

Về bài báo khoa học:

- ThS. Cao Thị Ngọc Hà, Hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa trong

tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nghề luật, Số 02/2019. Bài viết này tác giả chủ

yếu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của người bào chữa

và người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, chứ không tập trung phân tích quyền

được gặp và quyền hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ,

bị can đang bị tạm giam ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

- TS. Nguyễn Thanh Mai, Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt

động thu thập chứng cứ của người bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nghề

luật, Số 03/2019. Theo đó, tác giả đề cập quy định về quyền gặp, hỏi của người bào

chữa, những vướng mắc về trách nhiệm thông báo cho người bào chữa thời gian,

3

địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng nói chung, chứ không phân tích chuyên sâu ở

giai đoạn điều tra.

Về luận văn thạc sĩ:

- Phạm Thị Ngọc Thu (2018), Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự, Đại học Luật TPHCM. Đây là luận văn thạc sĩ được viết theo định

hướng nghiên cứu, tác giả đã tập trung phân tích về chức năng bào chữa trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung, bao gồm: chức năng bào chữa của người bị

bắt, người bị tạm giữ, bị can và người bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ,

bị can. Do đó, luận văn chưa tập trung nghiên cứu chuyên sâu đối với chức năng

của người bào chữa nói riêng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

- Nguyễn Văn Út (2019), Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội của người bào chữa

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Đại học Luật TPHCM. Đây là luận văn được

viết theo định hướng ứng dụng, tác giả đã nêu đầy đủ những quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 về quyền gặp và hỏi người bị buộc tội của người bào chữa

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, phần vướng mắc và đề xuất, giải

pháp còn mang tính chung chung, chưa đi sâu vào những thực tiễn trong quá trình hành

nghề của luật sư nói riêng và của người bào chữa nói chung; từ đó tác giả chưa nêu

được các kiến nghị, giải pháp mang tính đột phá để ứng dụng trong thực tiễn.

- Nguyễn Thành Lợi (2019), Hỏi cung bị can theo luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Đại học Luật TPHCM. Đây là luận văn thạc sĩ được viết theo định hướng

nghiên cứu, tác giả đã thể hiện kiến thức lý thuyết, thực tiễn áp dụng pháp luật và

giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động hỏi

cung bị can. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu đi sâu phân tích hoạt động hỏi cung bị can

của Điều tra viên, Kiểm sát viên, đối với người bào chữa chỉ nêu chung chung,

không đi vào phân tích chuyên sâu.

Do đó, để đảm bảo tính mới trong bài luận văn của mình, tác giả sẽ nêu lên

những bất cập, vướng mắc về việc thực hiện quyền của người bào chữa trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự, cụ thể là quyền được gặp người bị bắt, người bị tạm

giữ, bị can đang bị tạm giam và quyền hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt,

người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam từ thực tiễn hành nghề luật sư của chính

tác giả. Bên cạnh đó, tác giả làm phiếu khảo sát từ đồng nghiệp, kết hợp một số quy

định tiến bộ về quyền của người bào chữa ở giai đoạn điều tra ở một số nước như:

Trung Quốc, Đức, Nga nhằm phân tích, đánh giá thực trạng và đưa ra kiến nghị phù

hợp với tình hình thực tế.

4

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về quyền của người bào

chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật

cũng như những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành; Luận văn đưa ra giải

pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho người bào chữa

được thực hiện các quyền theo đúng quy định mà không bị cản trở, từ đó nâng cao

ý thức pháp luật của người dân về nhu cầu dịch vụ pháp lý của luật sư trong giai

đoạn điều tra khi tham gia vụ án hình sự, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

con người, hạn chế việc xét xử oan sai, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về quyền được

gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam và quyền hỏi của người

bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam trên cơ sở

so sánh với các quy định pháp luật cũ và nêu bật những điểm mới tiến bộ.

- Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 về quyền được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị

tạm giam và quyền hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ,

bị can đang bị tạm giam dựa trên các Báo cáo của cơ quan có thẩm quyền, Phiếu

khảo sát do tác giả thu thập và thông tin từ các bài viết trên mạng internet.

- Nghiên cứu các hồ sơ vụ án từ tiễn hành nghề của tác giả để tổng kết, đánh

giá, kết luận về hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền của người bào chữa trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự.

- Đề xuất các giải pháp pháp lý, kiến nghị hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp

luật về quyền được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam và

quyền hỏi của người bào chữa đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị

tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Là các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp

luật tố tụng hình sự về quyền của người bào chữa ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự

theo Bộ luật tố tụng hình sự.

5

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: đề tài được giới hạn trong các quy định của pháp luật tố tụng

hình sự về quyền của người bào chữa ở giai đoạn điều tra theo Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015. Cụ thể là quyền của người bào chữa được gặp người bị bắt, người bị

tạm giữ, bị can đang bị tạm giam và quyền hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị

can đang bị tạm giam của người bào chữa ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015; trong đó tác giả tập trung phân tích diện chủ thể

người bào chữa chủ yếu là luật sư.

- Về không gian: trên địa bàn tỉnh An Giang và các tỉnh.

- Về thời gian: từ năm 2016 đến nay.

Tác giả giới hạn khảo sát nghiên cứu thông qua các tài liệu và thực tiễn xét

xử sơ thẩm các vụ án hình sự có thời gian từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

có hiệu lực (ngày 01/07/2016) đến nay. Đối với những bất cập, hạn chế của đề tài,

tác giả xin giới hạn đánh giá ở những tài liệu, vụ án mà tác giả tìm hiểu được, chứ

không bao gồm tất cả các nội dung liên quan đến việc thực hiện các quyền của

người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng trong hoạt động hành nghề. Đồng

thời, nghiên cứu những quy định pháp luật khác có liên quan đến đề tài, thực tiễn

thực hiện quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

5. Phương pháp nghiên cứu

Kết cấu của luận văn được chia làm hai Chương. Từng Chương sẽ giải quyết

dứt điểm một vấn đề. Do vậy, ở mỗi Chương tác giả sẽ kết hợp nhiều phương pháp

khác nhau. Cụ thể:

Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích các quy định của pháp

luật, phân tích điều luật, nhằm chỉ ra các vấn đề luật chưa quy định hay có quy định

nhưng chưa rõ ràng, những điểm mâu thuẫn giữa các điều luật. Đồng thời, phân tích

những tình huống đã xảy ra trong thực tiễn thực hiện quyền của người bào chữa, để

từ đó rút ra nhận xét về việc áp dụng pháp luật có phù hợp chưa, có những điểm nào

còn thiếu sót cần phải bổ sung, làm cơ sở đưa ra các kiến nghị hoàn thiện.

Phương pháp so sánh được sử dụng để chỉ ra những điểm nổi bật, khác biệt

giữa pháp luật tố tụng hình sự hiện hành với pháp luật tố tụng hình sự cũ hay giữa

pháp luật hiện hành với các văn bản pháp luật khác có liên quan làm cơ sở đưa ra

những kiến nghị sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế.

Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh cho từng nhận định

của tác giả.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!