Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng và giải pháp.DOC
MIỄN PHÍ
Số trang
108
Kích thước
581.3 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1078

Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng và giải pháp.DOC

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. GTGT : Giá trị gia tăng

2. KTNQD : Kinh tế ngoài quốc doanh

3. NQD : Ngoài quốc doanh

4. NSNN : Ngân sách Nhà nước

5. TNCT : Thu nhập chịu thuế

6. TNDN : Thu nhập doanh nghiệp

7. TSCĐ : Tài sản cố định

8. TTĐB : Tiêu thụ đặc biệt

9. UBND : Uỷ ban nhân dân

10. XDCB : Xây dựng cơ bản

11. XHCN : Xã hội chủ nghĩa

12. XNK : Xuất nhập khẩu

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều

thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía

sau quá trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số

thuế thu được trong hiện tại và tương lai, ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh

doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội, thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã

hội…

Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ thuế không chỉ thể hiện ra

là những vấn đề kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế

không những đòi hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật

định mà còn cần đến nghệ thuật tinh tế trong hành thu.

Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN - hàng năm số thu về thuế chiếm

khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu

chỉnh các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ

thống thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp

bước chuyển của nền kinh tế thì công tác quản lý thuế cần phải thay đổi và

hoàn thiện nhằm đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như

các cam kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những

uy lực vốn có của thuế để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển

sản xuất kinh doanh của mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo

thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.

Ở Việt Nam, hoạt động của khu vực KTNQG đã và đang ngày càng mở

rộng trên khắp các địa bàn trong từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ

sách kế toán, chứng từ hoá đơn còn thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện

tượng khai man trốn thuế, lậu thuế còn nhiều từ đó tạo ra sự bất bình đẳng và

sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy quản lý

thu thuế đối với khu vực KTNQG phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm

thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ thống thuế đặt ra.

Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng - trung du Bắc bộ, số thu về thuế

không nhiều, chưa đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong

đó KTNQG đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân

sách địa phương. Nhiều năm qua ngành thuế tỉnh Hà Tây nói chung, thuế

2

NQD nói riêng đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao. Nhưng

với tính chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quản lý

thuế ở tỉnh Hà Tây cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm

bảo nuôi dưỡng nguồn thu, thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật.

Xuất phát từ tình hình trên, luận văn với đề tài “Quản lý thuế khu vực

kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng và giải pháp” hy vọng đưa

ra được một số giải pháp đáp ứng những yêu cầu bức xúc của đời sống kinh

tế.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay đã có không ít đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về

thuế và công tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối

tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.

- Vũ Công Nhĩ: "Thất thu thuế ở Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân

và giải pháp". Luận án PTS khoa học kinh tế - 1995.

- Nguyễn Thị Hiền: "Một số vấn đề về hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt

Nam". Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế - 1997.

- Vũ Thị Toản: "Công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn Hà Nội".

Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế - 1996.

Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết thiết thực,

nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức...

Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thuế

NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây.Vì vậy, luận văn nghiên cứu là cần thiết, qua

đó chỉ những nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế NQD, trên cơ

sở đó đề xuất những giải pháp khả thi ở địa bàn tỉnh Hà Tây, nhằm thực hiện

được mục tiêu của hệ thống thuế tại địa phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ.

- Mục đích: Làm rõ những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý thu thuế khu

vực kinh tế NQD ở Hà Tây; đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm tăng cường,

hoàn thiện quản lý thu thuế NQD trên địa bàn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh

tế – xã hội của Hà Tây.

- Nhiệm vụ của luận văn:

+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thuế và quản lý thu thuế đối

với khu vực KTNQD.

3

+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh

Hà Tây.

+ Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và

tăng cường quản lý thu thuế NQD tại tỉnh Hà Tây

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:

Ở Việt Nam KTNQD là một khu vực kinh tế đang hình thành và phát

triển, cách hiểu về nó cũng còn nhiều vấn đề chưa thống nhất. Vì vậy, nghiên

cứu về quản lý thu thuế khu vực KTNQD, đề tài chỉ tập trung tìm hiểu công

tác quản lý thuế đối với các đơn vị trong các hoạt động sản xuất kinh doanh -

dịch vụ gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp

tư nhân, Hộ kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ.

Cũng do điều kiện và mục đích nghiên cứu, luận văn chỉ giới hạn việc

khảo sát, đánh giá khu vực KTNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong một số

năm gần đây- chủ yếu là từ năm 2000, khi Luật doanh nghiệp được thực hiện

đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn kết hợp sử dụng nhiều

phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp

thống kê, so sánh để rút ra những kết luận cần thiết.

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn

- Chỉ ra thực trạng, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những

tồn tại trong công tác quản lý thuế đối với khu vực KTNQD ở tỉnh Hà Tây.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác

quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1: Tổng quan về thuế và quản lý thuế ngoài quốc doanh

4

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh ở Hà Tây.

Chương 3: Những quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện công

tác quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây

những năm tới.

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ

KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ

1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế

- Khái niệm - bản chất:

Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng

thời cũng là một phạm trù lịch sử – thuế ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự

ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Trong thời kỳ Cộng sản nguyên

thuỷ, khi điều kiện lao động của con người còn thô sơ, con người lao động đủ

để duy trì sự sống của mình, chưa có Nhà nước lúc đó xã hội chưa biết thuế là

gì. Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, xã hội loài người có sự phân

chia thành giai cấp và đấu tranh giữa các giai cấp, Nhà nước ra đời. Để duy trì

bộ máy Nhà nước, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, quốc phòng – an

ninh .., đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn tài chính để chi tiêu. Nguồn tài chính

này có được là do sự đóng góp của mọi thành viên trong xã hội và sự đóng

góp này mang tính bắt buộc. Theo Ph.Ăngghen: “Để duy trì quyền lực công

cộng cần phải có sự đóng góp của những người công dân cho Nhà nước, đó

thuế má” (14, tr.552). Với tiến trình phát triển của xã hội loài người, Nhà

nước xuất hiện, thuế cũng từ đó ra đời, tồn tại và phát triển

Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ

làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước

ở chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có

5

thêm nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày

càng nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm công việc chăm lo đời

sống, văn hoá, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với

nhiều sắc thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế

Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở

rộng, đòi hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng

lên. Điều đó, không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tổ chức

kinh tế, đó là thuế.

Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước

và thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra

sản phẩm thặng dư. Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, sự chuyển

dịch giá trị sản phẩm thặng dư từ thành phần kinh tế này sang thành phần

kinh tế khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác rất đa dạng và phức tạp. Cho

nên, đứng trên giác độ toàn xã hội, đòi hỏi phải có hệ thống thuế để điều tiết

thoả đang số sản phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công bằng.Vì

vậy, khi xã hội càng văn minh thì thuế khoá lại càng đa dạng và phát triển.

Tóm lại, quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy,

thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại

tất yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát

triển của Nhà nước.

Trên các sách báo kinh tế, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt

đối khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra

mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh

đầy đủ bản chất chung của phạm trù này. Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển

thì thuế được quan niệm rất đơn giản: “Thuế khoá là cái vú sữa của Chính

phủ” [13, tr317].

Sau này khái niệm về thuế được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn

Từ điển Kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes

cho rằng: “Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải

và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc

chi tiêu hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản”.

Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn

“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ như sau:

6

Thuế nhà nước là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc

hàng hoá, dịch vụ) của các Công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ, mà

trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá

hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp thuế đó không phải là tiền phạt mà toà

án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật” [31, tr.10].

Ở nước ta cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo

một số nhà nghiên cứu: Thuế là hình thức động viên, phân phối và phân

phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo pháp luật của

Nhà nước quy định, nhằm đáp ứng những khoản chi tiêu cần thiết của

Nhà nước. Đó là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức (chủ yếu là

tổ chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính

bắt buộc không hoàn trả trực tiếp [11, tr.1].

Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu về thuế, các nhà kinh tế

cho rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật các

khía cạnh sau đây: Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ

tiền tệ giữa Nhà nước với pháp nhân và thể nhân; những mối quan hệ dưới

dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc

biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh Nhà

nước, xét theo khía cạnh luật pháp thuế là khoản nộp cho Nhà nước được

pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.

Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về thuế kể

trên có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một

khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho

Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, nhằm sử

dụng cho mục đích công cộng [31, tr.11].

- Đặc điểm của thuế:

Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có

của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển.

Nghiên cứu về thuế người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt

với các công cụ tài chính khác.

+ Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong

xã hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự:

7

Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó

phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc

điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được

hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc

động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước mà kết quả của quá trình

đó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà

nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác

trực tiếp cho người nộp thuế.

Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn

từ những lý do sau:

Thứ nhất: hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không

gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương

pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công

cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối

tượng có thu nhập phải chuyển giao.

Thứ hai: trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng

về hàng hoá công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó thì thu

nhập về hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các

chi phí bỏ ra. Nhưng hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không

thể phân bổ theo “khẩu phần” để sử dụng và người thụ hưởng cũng không

muốn sử dụng theo “khẩu phần”. Mặt khác, hàng hoá công cộng không có

tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp

các chi phí. Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hoá công cộng đã xuất

hiện những “người ăn không”, nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc

thụ hưởng hàng hoá công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hoá công

cộng, Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc “người ăn

không” phải chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công.

Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là

hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có

biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa

vụ của người công dân.

Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài

chính khác của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền.

8

Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ

xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại

đến lợi ích Nhà nước hoặc cộng đồng. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói

chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và

lệ phí chỉ xảy ra khi người trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do

Nhà nước cung cấp.

+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính hoàn

trả trực tiếp:

Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau:

Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính

chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà

nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch

vụ hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế cũng không

có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực

tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước; mặt

khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết

ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ

căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội

cũng như nhu cầu tài chính cung của Nhà nước.

Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được

hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một

phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng,

giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ

nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế và

các khoản phí, lệ phí.

+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước

bằng luật pháp:

Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác

phản ánh sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tuỳ tiện mà dựa trên

những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong các luật

thuế, pháp lệnh thuế, đó là: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế

phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.

9

+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh

hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất

định:

Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền

kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả thị trường (trong nước

và quốc tế), sự biến động của NSNN, ….

Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị

của Nhà nước, tâm lý, tập quán của tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã

hội của dân tộc…

Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội nên

người ta thường nói đến thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.

+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được

giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà

nước đối với con người và tài sản:

Các đạo luật về thuế chỉ có tác dụng điều tiết các hoạt động kinh tế và

sự chuyển giao thu nhập trong khuôn khổ biên giới của mỗi quốc gia, nơi

mà quyền lực pháp lý của nhà nước được duy trì. Điều này cũng có nghĩa

là, trong các hoạt động kinh tế quốc tế, các giao dịch diễn ra ở nước ngoài

phải chịu sự chi phối của luật pháp nói chung, những quy định về thuế nói

riêng của nước ngoài. Chính vì điều này, trong quá trình hội nhập quốc tế,

các quốc gia phải xây dựng hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ

quốc tế để tạo thuận lợi cho các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước.

Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản

chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng

ta phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều

phương diện khác nhau.

1.1.2. Vai trò của thuế

+ Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà nước:

Bất kỳ một chế độ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều

phải tạo cho mình một nền tài chính quốc gia vững chắc và lành mạnh,

trong đó nguồn tài chính chủ yếu được động viên từ thuế và phí ở nội bộ

nền kinh tế quốc dân.

10

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!