Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

QUẢ ĐẤT QUÊ HƯƠNG Chương II pptx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
QUẢ DẤT QUÊ HƯƠNG
Chương II: Tấm thẻ căn cước địa cầu
Từ năm 1950 đến năm 1970 nhờ vào sự tiến triển đồng thời của khoa vật lý thiên
thể, địa cầu học, sinh vật học và cổ sinh vật học, những khái niệm tưởng chừng
bền vững nhất về bản chất của thiên nhiên, của trái đất, của sự sống và ngay cả của
con người đã bị đánh đổ. Những tiến bộ có tính cách mạng này đã cho phép xuất
hiện một ý thức toàn cầu mới.
Từ một vũ trụ đến một vũ trụ
Trong thời gian suốt mấy nghìn năm, trái đất đã là một trung tâm tối cao của vũ
trụ. Mặt trời và các hành tinh khác quay xung quanh nó một cách kính cẩn. Các
nhà thiên văn học thời cổ đại đã quan sát vũ trụ này, cái hệ thống thiên thể
Ptolémée (Ptô-lê-mê) mà giá trị còn tồn tại đến gần đây đã chứng minh điều đó.
Rồi với Copernic, Kepler, Galileo quả đất đã không còn là trung tâm vũ trụ nữa
mà thành một hành tinh hình cầu quay xung quanh mặt trời như những hành tinh
khác. Nhưng mặt trời vẫn còn ở trung tâm của tất cả mọi thứ. Cho đến cuối thế kỷ
XVIII, vũ trụ vẫn còn tiếp tục vâng theo một trật tự tuyệt vời, chứng tỏ một sự
toàn mỹ của đấng sáng tạo. Newton (Niu-tơn) đã đề xuất những định luật bảo
chứng cho cái vũ khúc hài hòa của guồng máy thiên thể. Vào đầu thế kỷ XIX,
Laplace đã đuổi đấng thượng đế - tạo hoá ra khỏi cái vũ trụ tự lực cánh sinh này,
cái vũ trụ tưởng chừng như đã trở thành một bộ máy hoàn hảo cho vạn đại. Đến
đầu thế kỷ XX, nó vẫn còn hoàn toàn ở trạng thái tĩnh. Ngay cả khi Einstein (Anh-
xtanh) đã bác bỏ tất cả tính trung tâm ưu việt của vũ trụ, nó vẫn còn giữ được tính
chất vĩnh hằng, tự mình đầy đủ và tồn tại một cách vô hạn.
Chỉ đến năm 1923 thiên văn học mới khám phá ra sự tồn tại của những thiên hà
khác. Những thiên hà này chẳng bao lâu sau lại cũng chỉ là một vài trong hàng
triệu những thiên hà khác. Từ lúc đó thiên hà của chúng ta đã bị đẩy ra rìa (mất
hẳn tính trung tâm của nó). Vào năm 1929, Hubble (Hub-bơn) phát hiện sự xê dịch
về phía đỏ của đường quang phổ chiếu ra từ những thiên hà xa xăm và như vậy đã
cung cấp dấu hiệu được kiểm chứng về sự bành trướng của vũ trụ. Những thiên hà
xa rời nhau liên tục bằng những vận tốc kinh hoàng, sự xáo trộn này làm đảo lộn
trật tự vĩnh hằng của vũ trụ.
Cái vũ trụ không ngừng bành trướng và phân tán này sẽ còn trải qua một cuộc đổi
dời lớn hơn nữa trong hậu bán thế kỷ XX. Năm 1965, Penzias (Pen-giax) và
Wilson (Win-sân) đã bắt được một tia bức xạ đẳng hướng (cùng từ các hướng -
isotrope, ND) đến từ nhiều chân trời vũ trụ, cái âm vang vũ trụ này (bức xạ bối
cảnh) chỉ có thể giải thích được bằng những cặn bã hoá thạch của một vụ bùng nổ
trước kia và giả thuyết về một vũ trụ mà sự bành trướng phân tán có thể là kết quả
của một tai biến ban sơ đã có cơ sở. Từ đó người ta đã giả dụ rằng từ một "sáng
quang" (Fiat lux) sơ khởi vũ trụ đã xuất hiện như một hình thức ánh sáng ở một
nhiệt độ cao 1011 độ K. Và trong khoảnh khắc, một phần triệu giây đầu tiên đã
sinh ra những quang tử cùng với những quác, điện tử, trung vi tử. Rồi, giữa sự xáo
trộn kịch liệt và nóng bỏng bắt đầu một quá trình nguội lại từ từ, trong quá trình đó
những hạt đã tạo nên những nhân, rồi những nguyên tử khinh khí. Từ nay trở đi
vấn đề cần phải làm cho sáng tỏ là: làm sao trong cái vũ trụ ban sơ đồng chất này
lại có thể xuất hiện những dị biệt đầu tiên mà chỉ có chúng mới giải thích được sự
phân tán của cái vũ trụ ban sơ thành những vũ trụ khổng lồ kích thước không
giống nhau, mẹ của các tinh hà và tinh tú. Đó là thông tin mà vệ tinh Cô-bơ
(Cobe) đã đem về năm 1992, sau khi phát hiện được những biến hoá cực nhỏ của
mật độ vật chất bên rìa vũ trụ xa hằng 15 tỷ năm ánh sáng và có lẽ chỉ ba trăm
nghìn năm sau biến cố khai thuỷ (1).