Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phòng trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918
PREMIUM
Số trang
130
Kích thước
4.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
733

Phòng trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sau 26 năm xâm lƣợc và bình định nƣớc ta, bằng các âm mƣu thâm độc

và chiến tranh xâm lƣợc tàn bạo, thực dân Pháp đã bắt triều đình nhà Nguyễn

ký điều ƣớc Hác - măng đầu hàng Pháp.

Để đặt cơ sở thống trị lâu dài trên toàn cõi Việt Nam, từ năm 1884 thực

dân Pháp xúc tiến xâm lƣợc các tỉnh trung du và thƣợng du Bắc Kỳ.

Thái Nguyên là tỉnh có nhiều tài nguyên, khoáng sản quí và phong phú

lại có địa bàn chiến lƣợc hết sức quan trọng nên sau khi đánh chiếm đƣợc

thành Bắc Ninh, tháng 3 năm 1884 thực dân Pháp từ Bắc Ninh mở cuộc tấn

công đánh chiếm tỉnh thành Thái Nguyên. Kể từ đó phong trào đấu tranh

chống thực dân Pháp xâm lƣợc của nhân dân Thái Nguyên đã nổ ra và ngày

càng mạnh mẽ.

Tuy nhiên thực dân Pháp phải mất hơn 10 năm chinh phục và bình định

phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên

mới có thể xây dựng hoàn chỉnh bộ máy thống trị, bóc lột ở vùng này.

Dƣới ách thống trị của thực dân Pháp, chịu sự tác động của phong trào

yêu nƣớc, cách mạng của nhân dân, phong trào đấu tranh của binh lính Việt

Nam chống lại chính sách cai trị của Pháp đã nổ ra ngày càng mạnh.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, chịu ảnh hƣởng của các hoạt

động của Việt Nam Quang phục hội, phát huy truyền thống yêu nƣớc đấu

tranh của binh lính Việt Nam đã làm bùng nổ cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên

do Đội Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến lãnh đạo. Đây là cuộc nổi dậy khởi nghĩa

của binh lính ngƣời Việt trong quân đội Pháp kéo dài nhất và có tiếng vang

nhất ở Việt Nam trong thời kỳ này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở Thái Nguyên thời kỳ 1884

- 1918 là một mốc lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng. Nó quan trọng không chỉ

bởi đây là thời kỳ đấu tranh kiên cƣờng của nhân dân các dân tộc ở Thái

Nguyên chống thực dân Pháp xâm lƣợc, mà nó còn góp phần phát huy truyền

thống đấu tranh chống thực dân Pháp vì mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc.

Đặc biệt cuộc khởi nghĩa của binh lính ngƣời Việt trong quân đội Pháp do

Đội Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến lãnh đạo đã gây tiếng vang lớn trong cả nƣớc,

nó khiến cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ, chính quyền Pháp ở Đông

Dƣơng bị chấn động, góp phần răn đe hệ thống cai trị của Pháp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, vai trò

của Lƣơng Ngọc Quyến và tinh thần anh dũng đấu tranh của binh sĩ yêu nƣớc

trong khởi nghĩa Thái Nguyên đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đồng chí

Trƣờng Chinh cũng đã ghi nhận khởi nghĩa Thái Nguyên là một trong những

sự kiện lớn xảy ra ở thị xã Thái Nguyên. Tác giả Trần Huy Liệu, trong cuốn

Lịch sử tám mƣơi năm chống Pháp cũng đã nhắc đến cuộc khởi nghĩa Thái

Nguyên nhƣ là một tấm gƣơng sáng cho các cuộc khởi nghĩa khác noi theo…

nhân dân Thái Nguyên với lòng tự hào của mình đã ghi nhớ công lao to lớn

của thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên - lập đền thờ Đội Cấn… Tên tuổi

của những ngƣời lãnh đạo khởi nghĩa Thái Nguyên đã đi vào lịch sử của dân

tộc Việt Nam. Nhiều đƣờng phố, khu dân cƣ, trƣờng học, mang tên Lƣơng

Ngọc Quyến và Đội Cấn. Các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học ở Việt

Nam trong các thập kỷ đã qua có nhiều công trình nghiên cứu và đánh giá cao

cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên trong lịch sử.

Để hiểu thêm về phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Thái

Nguyên, nhất là cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, góp phần khẳng định những

trang sử vàng trong truyền thống đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

dân các dân tộc trong tỉnh em mạnh dạn chọn đề tài: “Phong trào đấu tranh

chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918” làm luận

văn thạc sĩ của mình.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Liên quan tới đề tài “Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh

Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918” trên nhiều khía cạnh khác nhau đã có

một số cơ quan, cá nhân giới sử học trong nƣớc đề cập đến trong một số cuốn

sách đã đƣợc công bố.

Có lẽ tác phẩm ra đời sớm nhất tố cáo chính sách thống trị, bóc lột tàn bạo

của thực dân Pháp ở Đông Dƣơng và Thái Nguyên là một trong những

nguyên nhân quan trọng dẫn đến khởi nghĩa Thái Nguyên bùng nổ năm 1917

đó là : “Bản án chế độ thực dân Pháp ” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tác

phẩm đƣợc Ngƣời viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921 - 1925

và đƣợc xuất bản lần đầu tiên năm 1925 tại Pari - Thủ đô nƣớc Pháp

Cuốn “Lịch sử tám mươi năm chống Pháp ” của Trần Huy Liệu, tác giả

viết về cuộc chiến đấu của nhân dân cả nƣớc chống Pháp, trong đó có đề cập

đến hoàn cảnh, diễn biến cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917.

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm khởi nghĩa Thái Nguyên ( 1917 - 1997 ), Sở

văn hóa thông tin tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Viện sử học Việt Nam tổ

chức hội thảo khoa học về khởi nghĩa Thái Nguyên và cho xuất bản cuốn:

“Khởi nghĩa Thái Nguyên 80 năm nhìn lại ”. Cuốn sách mang tính chất kỷ

yếu, tập hợp các công trình khoa học và các tham luận khoa học của các nhà

nghiên cứu lịch sử về khởi nghĩa Thái Nguyên tại hội thảo. Ở góc độ và mức

độ khác nhau, các nhà khoa học đã đề cập xoay quanh các vấn đề: nguyên

nhân, hoàn cảnh lịch sử, diễn biến và tính chất khởi nghĩa Thái Nguyên trong

lịch sử.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

Cuốn “ Đội Cấn - Thái Nguyên ” do Việt Hải biên soạn nói về cuộc đời

của Đội Cấn, một số nét về nguyên nhân, diễn biến của cuộc khởi nghĩa Thái

Nguyên .

Năm 1917 Đào Trinh Nhất xuất bản cuốn “Lương Ngọc Quyến và cuộc

khởi nghĩa Thái Nguyên ” chủ yếu nói đến cuộc đời hoạt động cách mạng của

Lƣơng Ngọc Quyến, đồng thời tác giả cũng trình bày sơ lƣợc về cuộc khởi

nghĩa Thái Nguyên .

Từ sau khi tỉnh Thái Nguyên đƣợc tái thành lập (1 - 1 - 1997) thực hiện

chỉ đạo của Tỉnh ủy, năm 1999, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên biên

soạn và phát hành cuốn “ Thái Nguyên lịch sử đấu tranh cách mạng và kháng

chiến chống Pháp (1941 - 1954)”; năm 2003, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh

Thái Nguyên chỉ đạo biên soạn và xuất bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái

Nguyên tập 1 (1936 - 1965)”. Hai cuốn sách nêu trên ở mức độ khác nhau đã

đề cập đến phong trào yêu nƣớc chống thực dân Pháp xâm lƣợc của nhân dân

các dân tộc tỉnh Thái Nguyên trƣớc khi có đảng cộng sản Việt Nam ra đời.

Từ năm 2002 trở lại đây, thực hiện chỉ thị số 15 - CT/TW ngày 28 - 8-

2002 của Ban bí thƣ trung ƣơng Đảng, chỉ thị số 17 - CT /TW ngày 31 - 12 -

2002 của Ban thƣờng vụ Tỉnh ủy Thái Nguyên về “Tăng cường và nâng cao

chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ các cấp, lịch sử các ngành

trong tỉnh”, các đơn vị cấp huyện và cơ sở trong tỉnh đã tiến hành sƣu tầm

biên soạn lịch sử Đảng và lịch sử truyền thống. Đến nay, đã có 9/9 huyện,

thành, thị biên soạn lịch sử đảng bộ; lịch sử kháng chiến chống Pháp, chống

Mĩ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; 7 xã biên soạn đƣợc lịch sử đảng bộ xã. Các

sách viết về lịch sử các ngành, các tổ chức xã hội ở trong tỉnh nhƣ: công an,

quân đội, thanh niên, phụ nữ… lần lƣợt đƣợc biên soạn, xuất bản. Nội dung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

các công trình nghiên cứu này ít nhiều có liên quan đến phong trào đấu tranh

chống Pháp của nhân dân tỉnh Thái Nguyên từ 1884 - 1918.

Các tác phẩm của các nhà lãnh đạo cách mạng và những công trình nghiên

cứu của các cơ quan và các nhà khoa học nói trên là nguồn tài liệu quan trọng

giúp em hoàn thành nghiên cứu đề tài này.

3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

3.1. Đề tài nghiên cứu:

Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời

kỳ 1884 - 1918.

3.2. Phạm vi của đề tài

- Đề tài đề cập tới địa bàn chiến lƣợc tỉnh Thái Nguyên và truyền thống

đấu tranh của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.

- Nội dung chính của đề tài là nghiên cứu Phong trào đấu tranh chống thực

dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918.

3.3. Nhiệm vụ của đề tài

Thông qua các tƣ liệu lịch sử cụ thể, đề tài tái dựng lại bức tranh lịch sử

về phong trào kháng chiến chống Pháp ở tỉnh Thái Nguyên từ năm 1884 đến

năm 1918, làm nổi bật đƣợc hoàn cảnh lịch sử trong nƣớc dẫn đến phong

trào đấu tranh chống pháp của nhân dân Thái Nguyên, diễn biến của phong

trào qua các giai đoạn. Xác định vị trí, tính chất của cuộc khởi nghĩa Thái

Nguyên trong lịch sử.

4. NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Nguồn tƣ liệu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các tác phẩm của:

Các Mác, Enghen, Lênin; các Văn kiện Đảng, những bài viết và tác phẩm của

Chủ tịch Hồ Chí Minh; các bài viết của đồng chí Trƣờng Chinh, các công

trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã đƣợc công bố, các bài viết đăng trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

tạp chí: Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu lịch sử Đảng, Lịch sử quân sự …

giáo trình các trƣờng đại học, kỉ yếu hội thảo khoa học… viết về lịch sử liên

quan đến phong trào chống Pháp của nhân dân Thái Nguyên trong những năm

1884 - 1918 là nguồn tài liệu cơ bản để thực hiện đề tài này.

4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết

hợp phƣơng pháp lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng phƣơng

pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ nội dung của đề tài.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Luận văn góp phần làm rõ vị thế chiến lƣợc của tỉnh Thái Nguyên

trong đấu tranh chống xâm lƣợc, giành độc lập dân tộc.

- Luận văn trình bày một cách có hệ thống Phong trào đấu tranh chống

Pháp của tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918.

- Luận văn làm rõ vị trí, vai trò phong trào đấu tranh chống Pháp khi

thực dân Pháp tiến hành xâm lƣợc và bình định Thái Nguyên. Đặc biệt luận

văn làm rõ nguyên nhân bùng nổ, diễn biến, vị trí, vai trò cuộc khởi nghĩa

Thái Nguyên.

6. KẾT CẤU LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo đề tài gồm

3 chƣơng:

Chương 1: Vị trí chiến lƣợc, con ngƣời và truyền thống đấu tranh

bất khuất của tỉnh Thái Nguyên

Chương 2: Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lƣợc ở

tỉnh Thái Nguyên (1884 - 1914).

Chương 3: Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lƣợc ở

tỉnh Thái Nguyên (1914 - 1918 ).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

CHƢƠNG 1

VỊ TRÍ CHIẾN LƢỢC, CON NGƢỜI VÀ TRUYỀN THỐNG ĐẤU

TRANH CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN

1.1 . VỊ TRÍ CHIẾN LƢỢC

1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Thái Nguyên là một tỉnh miền núi và trung du, nằm ở vùng tiếp giáp giữa

đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng rừng núi thƣợng du Bắc Kỳ, ở tọa độ

từ 21,20 đến 20,03 độ vĩ bắc, 105,28 đến 106,16 độ kinh đông, có diện tích tự

nhiên 3.541,5 km2

, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 80 km. Phía bắc giáp tỉnh

Bắc Cạn, phía nam giáp thành phố Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang,

phía tây nam giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía đông bắc giáp tỉnh Lạng Sơn và đông

nam giáp tỉnh Bắc Giang. Đơn vị hành chính Thái Nguyên thời Pháp thuộc

gồm: 1 thị xã Thái Nguyên và 7 huyện: Định Hóa, Phú Lƣơng, Đại Từ, Võ

Nhai, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên; toàn tỉnh có 51 tổng, 237 xã, 15 khu phố,

16 trại [48, tr.4]. Thái Nguyên là cửa ngõ phía nam, một phần phía đông khu

Việt Bắc, các huyện phía bắc và tây bắc vùng núi hiểm trở, các huyện phía

nam bán sơn địa tiếp giáp với trung du và đồng bằng, gần Hà Nội. Bởi thế,

trong cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp Thái Nguyên là căn cứ địa

“ Tiến khả dĩ công , thoái khả dĩ thủ”.

Địa hình Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi thấp chạy theo hƣớng bắc nam

thấp dần từ bắc xuống nam. Bao quanh phía tây nam là dãy núi Tam Đảo và

phía bắc là cánh cung Ngân Sơn, phía đông bắc là sơn khối Bắc Sơn. Đƣợc

các dãy núi phía bắc và đông bắc này che chắn nên Thái Nguyên ít chịu ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

hƣởng của gió mùa đông bắc. Địa hình Thái Nguyên với nhiều đồi thấp thuận

lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp và xây dựng các công trình công nghiệp.

Địa hình Thái Nguyên chia làm 3 vùng: Vùng phía tây và tây bắc của tỉnh bao

gồm các huyện: Đại Từ, Định Hoá và các xã phía tây của huyện Phú Lƣơng là

vùng rừng núi hiểm trở, địa hình chia cắt mạnh. Xen giữa các dải núi là các

khu ruộng nhỏ dốc, hẹp. Vùng phía Đông gồm 2 huyện Đồng Hỷ và Võ Nhai,

độ cao trung bình 500 đến 600m, địa hình phức tạp với những khối núi đá vôi

to lớn ở Thần Sa, Thƣợng Nung, Nghinh Tƣờng đặc biệt là khối núi đá vôi

Phƣơng Giao ở Đông Nam huyện Võ Nhai đồ sộ và hiểm trở, tạo ra nhiều

thung lũng hẹp và sâu.Trong lòng núi đá vôi ở các huyện Võ Nhai và Định

Hoá có nhiều hang động rộng, trong chiến tranh có thể làm kho chứa hàng

hoá, vũ khí hoặc làm nơi trú chân, che dấu lực lƣợng thuận tiện .

Vùng trung du gồm các xã phía Nam của huyện Phú Lƣơng, phía Tây

huyện Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện Phú

Bình, Phổ Yên, đồi núi thấp xen lẫn với đồng bằng.

Điều kiện tự nhiên của ba vùng trên đây đã tạo cho Thái Nguyên phát huy

thế mạnh địa hình, địa vật trong quân sự khi chiến tranh xảy ra, đồng thời núi

rừng hiểm trở lại có tác dụng hạn chế khả năng tác chiến hiện đại của quân

thù và trong hoà bình điều kiện tự nhiên cho phép Thái Nguyên tận dụng thế

mạnh phát triển kinh tế kết hợp giữa nông - lâm nghiệp.

Về khí hậu, Thái Nguyên hình thành 3 vùng: vùng phía tây nóng và mƣa

nhiều, vùng phía đông lạnh và mƣa ít, vùng phía nam có tính chất trung gian

chuyển tiếp giữa phía đông và phía tây. Lƣợng mƣa hàng năm ở Thái Nguyên

trung bình từ 1800-2500 mm. Chế độ mƣa chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa nóng

và mùa lạnh.Vào mùa hè, hoạt động của hệ thống khí áp từ phía tây làm cho

thời tiết nóng và khô, nhiệt độ cao tuyệt đối lên đến 39.60C. Vào mùa đông do

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

ảnh hƣởng của các đợt không khí lạnh từ phía bắc, thời tiết của Thái Nguyên

khá lạnh, sƣơng muối có khả năng xảy ra, nhất là phía Bắc nơi có địa thế và

độ cao địa hình thuận lợi cho hình thành sƣơng muối. Nhìn chung thời tiết khí

hậu Thái Nguyên không khắc nghiệt, sự phân hoá theo độ cao không lớn, mọi

địa hình trong tỉnh đều có hệ sinh thái đảm bảo cho con ngƣời sinh sống và

sản xuất.

Thái Nguyên có nhiều sông suối, phân bổ tƣơng đối đều trên địa bàn

tỉnh, trong đó lớn nhất là sông Cầu và sông Công. Thái Nguyên còn có nhiều

sông ngắn và nhỏ nhƣ: sông Đu, sông Nghinh Tƣờng, sông Dong, sông Chu,

sông Khe Mo, Huống Thƣợng và nhiều suối nhỏ khác. Các sông suối Thái

Nguyên hàng năm cung cấp cho đồng ruộng ven sông một khối lƣợng phù sa

rất lớn làm cho đất đai thêm phì nhiêu, màu mỡ, giữ đƣợc độ ẩm quanh năm,

thuận lợi cho việc gieo trồng các loại cây lƣơng thực và hoa màu.

Sông Cầu còn là tuyến giao thông đƣờng thủy quan trọng. Với vị trí nhƣ

vậy, Thái Nguyên là cầu nối giữa đồng bằng sông Hồng với các tỉnh miền núi

phía Bắc: Tuyên Quang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Thái Nguyên có hai đoạn quốc

lộ chạy qua: Quốc lộ số 3 chạy theo hƣớng bắc - nam, từ cầu Đa Phúc (Phổ

Yên) đến cầu Ổ Gà (Phú Lƣơng), giáp với tỉnh Bắc Cạn; quốc lộ 1B chạy

theo hƣớng tây nam- đông bắc từ cầu Gia Bẩy (thành phố Thái Nguyên) đến

cầu Mỏ Gà - (Phú Thƣợng - Võ Nhai). Ngoài ra Thái Nguyên còn có hai

tuyến đƣờng sắt: Thái Nguyên - Hà Nội; Thái Nguyên - Kép cùng nhiều tuyến

giao thông nội tỉnh và liên tỉnh nhƣ đƣờng qua Đại Từ lên Tuyên Quang; xuôi

Đồng Hỷ, Phú Bình về Bắc Ninh, Hà Nội … rất thuận lợi cho việc thông

thƣơng giữa các địa phƣơng trong tỉnh và với các tỉnh bạn. Theo sách Dƣ địa

chí của Nguyễn Trãi, Thái Nguyên là phên giậu thứ hai về phƣơng Bắc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

Về giao thông, trƣớc kháng chiến chống Pháp, Thái Nguyên chỉ có

đƣờng thủy và đƣờng bộ. Về đƣờng thủy, từ thị xã Thái Nguyên theo sông

Cầu có thể đi tới Đáp Cầu, từ Đáp Cầu đi tiếp xà lan tới Phủ Lạng Thƣơng,

Phả Lại, Hải Phòng hoặc từ Đáp Cầu có thể đi ôtô, tàu hỏa về Hà Nội. Mùa

mƣa từ thị xã Thái Nguyên, tàu thuyền có trọng tải dƣới 60 tấn có thể đi lại dễ

dàng về Đáp Cầu, Phả Lại, Hải Phòng và ngƣợc lại. Dƣới thời Pháp thuộc đây

là con đƣờng giao thông chính đảm bảo cho việc vận chuyển hàng hóa, lƣơng

thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng và binh lính đáp ứng cho các nhu cầu

về quân sự của thực dân Pháp. Về đƣờng bộ, từ tỉnh lỵ Thái Nguyên có các

con đƣờng đi Đáp Cầu, Chợ Chu, Sơn Tây và các trung tâm hành chính trực

thuộc tỉnh. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cho xây dựng con đƣờng từ Hà Nội

lên Phủ Lỗ, Đa Phúc qua tỉnh Thái Nguyên lên các tỉnh Bắc Cạn, Cao Bằng.

Hệ thống giao thông tỉnh Thái Nguyên từ trƣớc cách mạng tháng Tám

1945 đã có ý nghĩa chiến lƣợc rất quan trọng. Thái Nguyên có “sẵn đƣờng

giao thông với quốc tế, liền với trung châu tam giác, tức là có cái thế uy hiếp

Hà Nội. Phía đông có thể men theo rừng núi mà tiến đến lân cận Hải Phòng

và đi ra bể. Phía tây có thể men theo rừng núi mà tiến về Hà Đông hay liên lạc

với Thanh – Nghệ” [27]. Hệ thống giao thông tỉnh Thái Nguyên đã góp phần

quan trọng đảm bảo giao thông vận tải đi lại trong thời kỳ cách mạng. Tuy

nhiên, do địa hình tỉnh Thái Nguyên phức tạp, có nhiều sông suối nên các

tuyến giao thông phải đi qua nhiều cầu cống, hầm to, nhỏ khác nhau, trong

khi đó chất lƣợng đƣờng, cầu cống cũng chƣa thật cao nên vào mùa mƣa hoặc

khi địch đánh phá ác liệt thì việc đảm bảo giao thông có nhiều khó khăn.

Do đặc điểm địa hình tự nhiên tỉnh Thái Nguyên đan xen giữa miền núi

và trung du nên tiềm năng đất đai rất đa dạng kể cả đất nông nghiệp, đất công

nghiệp, đất rừng và tài nguyên khoáng sản.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

Đất Thái Nguyên chủ yếu thuộc loại Feralit, đất đá vôi và đất ruộng

thích hợp cho việc phát triển cây lƣơng thực, thực phẩm, cây công nghiệp và

chăn nuôi đại gia súc. Trong lòng đất có nhiều khoáng sản quý nhƣ than, sắt,

vàng, chì, kẽm … Sắt có ở các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Phú Lƣơng. Than

có ở huyện Phú Lƣơng, Đại Từ. Các mỏ ở Thái Nguyên từ lâu đã thu hút

nhiều nhà khai khoáng trong nƣớc và nƣớc ngoài đến khai thác. Dƣới 4 triều

vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức cả nƣớc có 4 mỏ chì đƣợc khai

thác thì mỏ Chì ở Quan Triều (Thái Nguyên) là mỏ có trữ lƣợng lớn rất đƣợc

chú trọng. Đây là một trong những công trƣờng khai thác mỏ có quy mô lớn,

tập trung hàng trăm công nhân. Lực lƣợng lao động tại các hầm mỏ thời đó

gồm cả binh lính, công tƣợng và dân phu, sản xuất theo chế độ lao dịch,

cƣỡng bức với tiền công rất thấp.

1.1.2. Địa giới hành chính qua các thời kỳ lịch sử

Theo sách Dƣ địa chí của Nguyễn Trãi, đời các vua Hùng, nƣớc Văn

Lang chia làm 15 bộ. Thái Nguyên thuộc đất bộ Vũ Định, đông và bắc giáp

Cao, Lạng; tây và nam giáp Kinh - Bắc ; có 2 lộ phủ, 9 huyện , 2 châu và 336

làng xã [65, tr.48]. Thái Nguyên lúc đó nằm dƣới sự cai quản của chế độ lạc

tƣớng. Khoảng đầu công nguyên chế độ lạc tƣớng chấm dứt, bộ chuyển thành

huyện, Vũ Định vẫn giữ tên cũ. Dƣới thời đô hộ của nhà Triệu, Thái Nguyên

nằm trong quận Giao Chỉ. Đời nhà Hán, Thái Nguyên nằm trong huyện Long

Biên thuộc quận Giao Chỉ. Đến thời Đƣờng - thế kỷ VIII, IX, X - Thái

Nguyên là đất châu Long và châu Vũ Nga thuộc An Nam đô hộ phủ.

Dƣới triều Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X) đất nƣớc đƣợc chia thành 10 đạo.

Khi Lý Thái Tổ lên ngôi (1010) rời kinh đô từ Hoa Lƣ ra Thăng Long, 10 đạo

đƣợc đổi thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh nhƣ Thái Nguyên nằm trong

các châu biên viễn. Đầu năm 1226, nhà Trần đổi châu thành lộ, vùng đất Thái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

Nguyên thuộc Nhƣ Nguyệt Giang lộ. Năm 1397 nhà Trần đổi châu Thái

Nguyên thành trấn Thái Nguyên tƣơng đƣơng với tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn

và nửa tỉnh Cao Bằng ngày nay [2, tr.19].

Thời thuộc Minh (1407 - 1427), vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), trấn

Thái Nguyên đƣợc đổi thành phủ Thái Nguyên lệ thuộc vào ty Bố chính; năm

1426 phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa Chính ty, gồm 3 phủ:

Thái Nguyên, Phú Bình, Thông Hóa.

Năm 1428, khi nhà Lê thành lập, Lê Thái Tổ chia đất nƣớc thành 5 đạo :

Tây Đạo, Đông Đạo, Bắc Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo. Thái Nguyên thuộc

Bắc Đạo. Dƣới đạo là trấn, lộ rồi đến phủ, huyện, châu và cuối cùng là xã.

Năm Quang Thuận thứ bẩy (1466), Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nƣớc,

từ 5 đạo đƣợc chia nhỏ thành 12 đạo Thừa Tuyên, Thái Nguyên là một trong

12 đạo Thừa Tuyên đƣợc gọi là Thái Nguyên Thừa Tuyên.

Vào năm Quang Thuận thứ 10 nhà Lê tiến hành điều tra địa hình, địa

giới của các Thừa Tuyên hoàn thành lập bản đồ quốc gia Đại Việt (1469)

khẳng định chặt chẽ hơn lãnh thổ và biên giới đất nƣớc đổi Thái Nguyên

Thừa Tuyên thành Ninh Sóc Thừa tuyên, gồm ba phủ Phú Bình, Thông Hóa,

Cao Bằng .Dƣới đời Hồng Đức (1483), Ninh Sóc Thừa Tuyên đƣợc đổi thành

sứ Thái Nguyên; năm 1533, xứ Thái Nguyên đƣợc đổi thành trấn Thái

Nguyên .

Từ thời Lê Trung Hƣng (1533 -1789) đến hết thời Nguyễn Gia Long,

Thái Nguyên vẫn gọi là trấn. Năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), phủ Cao Bằng đƣợc

tách khỏi trấn Thái Nguyên đặt tên riêng là trấn Cao Bằng.Từ đó trấn Thái

Nguyên còn hai phủ Phú Bình và Thông Hóa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

13

Thủ phủ tỉnh Thái Nguyên lúc này đƣợc đặt tại xã Bình Kỳ, huyện Thiên

Phúc (thuộc Hà Nội ngày nay). Năm 1813 thủ phủ Thái Nguyên đƣợc chuyển

về thành Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ.

Dƣới thời Nguyễn Gia Long, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành.

Năm 1831,1832, Minh Mạng chia cả nƣớc thành 30 tỉnh và một phủ Thừa

Thiên.Dƣới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và cuối cùng là làng xã. Trấn Thái

Nguyên đƣợc đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Năm Minh Mạng thứ 16(1835) lập

phủ Tòng Hóa [5, tr.10] trên cơ sở một châu, 3 huyện ( châu Định, huyện Văn

Lãng, Đại Từ và Phú Lƣơng ), đƣa Thái Nguyên lên 3 phủ, 9 huyện và 2

châu.

Dƣới thời Pháp thuộc, từ năm 1890 để dễ bề cai trị và đàn áp những cuộc

nổi dậy của nhân dân ta, chúng tách huyện Bình Xuyên khỏi tỉnh Thái

Nguyên để lập tỉnh Vĩnh Yên và thực thi chế độ quân quản, chia nhỏ địa bàn

Thái Nguyên.Từ tháng 10-1890 đến tháng 9-1892, tỉnh Thái Nguyên bị xóa

bỏ, phân tán vào các địa bàn khác nhau đặt dƣới quyền quản lí của giới cầm

quyền quân sự Pháp. Ngày 11-4-1900, toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định

thành lập tỉnh Bắc Cạn trên cơ sở toàn bộ phủ Thông Hóa của Thái Nguyên .

Trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945 Thái Nguyên là tỉnh nằm trong

căn cứ địa cách mạng Việt Bắc.Trong kháng chiến chống Pháp, Thái Nguyên

cùng với các tỉnh Tuyên Quang, Bắc Cạn trở thành trung tâm căn cứ địa

kháng chiến Việt Bắc - Thủ đô kháng chiến của toàn quốc.

Thực hiện Nghị quyết ngày 21-4-1965 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội

nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, từ ngày 1-7-1965, tỉnh Thái Nguyên hợp

nhất với tỉnh Bắc Cạn thành tỉnh Bắc Thái, gồm 13 đơn vị hành chính huyện,

thành thị trực thuộc.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!