Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh trong dạy học chương “các định luật bảo toàn” vật lí 10
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯
BÙI VĂN QUANG THÔNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG
“CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” VẬT LÍ 10
Ngành: Lý luận và PPDH Bộ môn Vật lí
Mã số: 8.14.01.11
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
ĐÀ NẴNG, 2019
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ PHƯỚC LƯỢNG
Phản biện 1:
PGS.TS. Nguyễn Bảo Hoàng Thanh
Phản biện 2:
TS. Dương Xuân Quý
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ Khoa học giáo dục họp tại Trường Đại học Sư phạm vào ngày
21 tháng 7 năm 2019
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN
Khoa Vật lý, Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc xác định đổi mới căn bản, toàn diện GD – ĐT và phát triển
nguồn nhân lực được coi là ưu tiên hàng đầu đối với GD nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Trước đó, trong Nghị quyết 29-NQ/TW khóa XI chỉ
rõ yêu cầu cấp thiết và nhiệm vụ cần đổi mới căn bản, toàn diện GD – ĐT.
Việc Bộ GD&ĐT công bố dự thảo Chương trình GD phổ thông tổng thể
để tranh thủ sự đóng góp của các nhà khoa học, nhà giáo và các tầng lớp
nhân dân đã cho thấy một quyết tâm không nhỏ; không chỉ của ngành GD,
mà còn của toàn Đảng, toàn dân chung tay xây dựng và đổi mới nền GD
theo hướng tiếp cận NL, phù hợp với xu thế phát triển chương trình GD
của thế giới và bắt kịp nền GD của các nước tiên tiến.
Ngày nay, như Bộ trưởng Bộ GD – ĐT Phùng Xuân Nhạ từng
nhấn mạnh, “Tri thức đã trở thành yếu tố hàng đầu để phát triển kinh
tế. Tất cả các nền kinh tế lớn trên thế giới, các quốc gia đều ý thức rõ
về vai trò của giáo dục trong việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng
cao tạo đòn bẩy quan trọng để thúc đẩy lao động sản xuất, tạo động
lực tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững” [6].
Khi mà hệ thống tri thức có những thay đổi thì sớm hoặc muộn, nhanh
hoặc chậm, NL tư duy và hoạt động lao động sản xuất của con người
cũng phải thay đổi. Chính vì thế, việc đổi mới tư duy GD trong thời
đại tri thức nhằm đáp ứng sự thay đổi của cuộc sống phát triển không
ngừng là một tất yếu. Việc đổi mới PPDH trước hết là đáp ứng yêu cầu
cần đạt về phẩm chất, NL người học và cuối cùng là vì mục tiêu đáp
ứng bối cảnh của thời đại, nhu cầu phát triển đất nước. Đây cũng là
một điều kiện tiên quyết, nhằm quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết
số 88/2014/QH13 của Quốc hội khóa 13: "Tạo chuyển biến căn bản,
toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy
chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo
2
dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn
diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa trí, đức, thể, mỹ và phát huy
tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh".[3]
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản
toàn diện GD và ĐT đã nêu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung cách dạy học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi
mới tri thứ, kỹ năng, phát triển NL …”.[2]
Như vậy, đổi mới PPDH theo hướng phát huy TTC, chủ động
sáng tạo của người học đã được đặt ra, và là định hướng quan trọng về
cải cách GD của nước ta hiện nay. Dưới làn sóng đó, yêu cầu cấp thiết
đặt ra là GD phải ĐT ra những con người năng động và sáng tạo, có
tính thích nghi cao đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Với
phương châm “DH lấy người học làm trung tâm”, bao gồm nhiều
PPDH tích cực phổ biến hiện nay như: PPDH theo góc, PPDH hợp tác,
DH khám phá, DH theo dự án, …. Trong đó PPDH nêu và GQVĐ sẽ
giúp cho người học chủ động, tích cực hơn trong việc học cũng như
trong cuộc sống tương lai. Ngoài ra, trong chương trình Vật lí THPT,
lớp 10 là cấp học đầu tiên và môn Vật lí có một sự thay đổi đột ngột
rõ rệt về mặt kiến thức so với THCS, sẽ dễ làm cho người học bị sốc
tâm lý nếu vẫn giữ PP dạy cũ, với lối tiếp thu thụ động.
Vì vậy tôi chọn đề tài: “Phát triển năng lực giải quyết vấn đề của
học sinh trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” Vật Lí 10”
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Thuật ngữ “DH nêu vấn đề” xuất phát từ thuật ngữ “Orixtic”
hay còn gọi là PP phát kiến, tìm tòi. PP này đã được nhiều nhà khoa
học nghiên cứu như A. Ja Ghecđơ, B. E Raicôp,… vào những năm 70
của thế kỉ XIX. Các nhà khoa học này đã nêu lên phương án tìm tòi,
3
phát kiến trong DH nhằm hình thành NL nhận thức của HS bằng cách
đưa HS vào hoạt động tìm kiếm ra tri thức, HS là chủ thể của hoạt
động học, là người sáng tạo ra hoạt động học. Đây có thể là một trong
những cơ sở lý luận của PPDH phát hiện và GQVĐ.
Vào những năm 50 của thế kỉ XX, xã hội bắt đầu phát triển
mạnh, đôi lúc xuất hiện mâu thuẫn trong GD đó là mâu thuẫn giữa yêu
cầu GD ngày càng cao, khả năng sáng tạo của HS ngày càng tăng với
tổ chức DH còn lạc hậu. Chính vì vậy, PP “DH nêu vấn đề” hay còn
gọi là “ DH phát hiện và GQVĐ” chính thức ra đời. PP này đặc biệt
được chú trọng ở Ba Lan. V. Okon – nhà GD học Ba Lan đã làm sáng
tỏ PP này thật sự là một PPDH tích cực, tuy nhiên những nghiên cứu
này chỉ dừng ở việc ghi lại những thực nghiệm thu được từ việc sử
dụng PP này chứ chưa đưa ra đầy đủ cơ sở lý luận cho PP này.
Những năm 70 của thế kỉ XX, M. I Mackmutov đã đưa ra đầy đủ
cơ sở lý luận của PPDH GQVĐ. Trên thế giới cũng có rất nhiều nhà khoa
học, nhà GD nghiên cứu PP này như Xcatlin, Machiuskin, Lecne,… PP
PBL lần đầu tiên được áp dụng tại đại học y khoa (Case
Western University – Hoa Kỳ) vào thập niên 50 của thế kỷ 20 và sau đó
là học viện y học (đại học McMasters, Hamilton, Canada).
Người đầu tiên đưa PP này vào Việt Nam là dịch giả Phan Tất
Đắc.Về sau, nhiều nhà khoa học nghiên cứu PP này như Lê Khánh
Bằng, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Bá Kim,….Tuy nhiên những nghiên cứu
này chủ yếu chỉ nghiên cứu cho phổ thông và đại học. Gần đây,
Nguyễn Kì đã đưa PP phát hiện và GQVĐ vào nhà trường tiểu học và
thực nghiệm ở một số môn như Toán, Tự nhiên – Xã hội, Đạo đức. PP
phát hiện GQVĐ thật sự là một PP tích cực. Trong công cuộc đổi mới
PPDH, PP này là một trong những PP chủ đạo được sử dụng trong nhà
trường nói chung.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phát triển NL GQVĐ của HS trong DH chương “Các định luật
4
bảo toàn” Vật Lí 10 THPT dựa vào PPDH GQVĐ.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và vận dụng được các tiến trình DH theo định
hướng phát triển NL GQVĐ trong DH chương “Các định luật bảo
toàn” Vật lí 10 thì sẽ phát triển NL GQVĐ của HS.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc tổ chức DH một số bài trong chương Các định luật bảo
toàn, Vật lí 10 THPT nhằm phát triển NL GQVĐ của HS.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung: Chương “Các định luật bảo toàn” lớp 10
THPT.
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Một số lớp 10 tại trường THPT
Phan Châu Trinh, Đà Nẵng.
- Giới hạn về thời gian: Năm học 2017-2018.
6. Phương pháp nghiên cứu
- PP nghiên cứu lý thuyết.
- PP nghiên cứu thực tiễn.
- PP thực nghiệm.
- PP thống kê.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ
lục, phần nội dung của đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Tổ chức dạy học một số kiến thức chương “Các định
luật bảo toàn” Vật lí 10 theo hướng phát triển năng lực giải quyết vấn
đề.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh
1.1.1 Mục tiêu dạy học
- Về kiến thức
- Về kĩ năng
- Về thái độ
1.1.2 Phương pháp dạy học
a. Phương pháp dạy học truyền thống
b. Phương pháp dạy học tích cực
1.1.3 Về nội dung dạy học
1.1.4 Kiểm tra đánh giá
1.2 Năng lực của học sinh
1.2.1 Khái niệm năng lực
Trong đề tài luận văn này, chúng tôi chấp nhận quan niệm: "NL
là sự kết hợp hợp lý kiến thức, kĩ năng và sự sẵn sàng tham gia các
hoạt động tích cực, có hiệu quả".
Một cách cụ thể hơn, NL là sự huy động và kết hợp một cách
linh hoạt và có tổ chức các kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá
trị, động cơ cá nhânđể thực hiện thành công các yêu cầu phức hợp
của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Muốn mô tả NL cá nhân, người
ta thường dùng các động từ chỉ hành động như: hiểu, biết, khám phá,
xây dựng, vận dụng, ... Muốn ĐG NL cá nhân hãy xem xét chúng trong
hoạt động. Ví dụ: NL giao tiếp có được khi cá nhân biết tổng hợp kiến
thức về ngôn ngữ, kĩ năng sử dụng các công cụ ngôn ngữ (nói, viết,
công nghệ thông tin) và thái độ đúng đắn với đối tượng giao tiếp.
1.2.2 Các thành phần của năng lực
1.2.3 Nội dung học tập theo quan điểm phát triển năng lực
1.2.4 Một số năng lực cần phát triển cho học sinh THPT
1.3 Năng lực giải quyết vấn đề
1.3.1 Khái niệm năng lực giải quyết vấn đề
6
Có thể đề xuất định nghĩa như sau: "NL GQVĐ là khả năng của
một cá nhân "huy động", kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức
kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,
để hiểu và GQVĐ trong tình huống nhất định một cách hiệu quả và
với tinh thần tích cực".
1.3.2 Các đặc điểm của năng lực giải quyết vấn đề
NL GQVĐ được thể hiện qua các mặt sau:
- Tư duy toàn diện
- Tư duy sáng tạo
- Suy nghĩ nhanh
- Phát biểu suy nghĩ
1.3.3 Cấu trúc năng lực giải quyết vấn đề
Trong đề tài này, tôi tập trung đi sâu vào 4 thành tố của NL
GQVĐ như đã nói ở trên.
1.4 Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
1.4.1 Khái niệm về dạy học giải quyết vấn đề
PPDH nêu và GQVĐ (trong một số tài liệu khác thì PP này có tên
là PPDH phát hiện và GQVĐ hay DH GQVĐ) là một PP đã có từ lâu, và
hiện đang là xu hướng DH mới ở Việt Nam và các các nước khác.
PPDH nêu và GQVĐ là PPDH mà GV sử dụng một vấn đề
chứa mâu thuẫn như là một động lực để DH. Thông qua việc GQVĐ
đặt ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ của GV, người học sẽ
chiếm lĩnh được nội dung kiến thức mới. Thông qua các hoạt động
GQVĐ HS sẽ tự lực, tích cực tư duy và sáng tạo trong học tập.
1.4.2 Bản chất dạy học giải quyết vấn đề
DH phát hiện và GQVĐ là PPDH trong đó GV tạo ra những tình
huống có vấn đề, điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác,
tích cực, chủ động, sáng tạo để GQVĐ và thông qua đó chiếm lĩnh tri
thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc
trưng cơ bản của DH phát hiện và GQVĐ là "tình huống gợi vấn đề"
vì "Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề"
7
(Rubinstein).
Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống
gợi ra cho HS những khó khăn về lý luận hay thực hành mà họ thấy
cần có khả năng vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc bằng một
thuật giải, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để
biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có.
1.4.3 Tổ chức tình huống có vấn đề
1.4.4 Cấu trúc của dạy học giải quyết vấn đề
Quá trình DH theo PP nêu và GQVĐ có thể chia làm ba giai
đoạn chính sau (xem hình 1.3)
1. Giai đoạn nêu và phát biểu vấn đề
- Làm nảy sinh vấn đề.
- Phát biểu vấn đề.
2. Giai đoạn GQVĐ
2.1. Đề xuất giả thuyết
- Từ suy luận lý thuyết hoặc từ thực nghiệm.
2.2. Kiểm chứng giả thuyết
- Đề xuất phương án thí nghiệm kiểm chứng và tiến hành thí
nghiệm kiểm chứng.
3. Giai đoạn kết luận vấn đề và phát biểu kiến thức mới
Hình 1.2. Sơ đồ quá trình DH theo PP nêu và GQVĐ
1.4.5 Các biện pháp tổ chức dạy học giải quyết vấn đề nhằm
phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh.
Có nhiều biện pháp để tổ chức DH GQVĐ nhằm phát triển NL
GQVĐ của HS. Ở đây, để dễ dàng hình dung, tôi sẽ căn cứ vào mức
độ tham gia của HS vào quá trình nghiên cứu và GQVĐ người ta
8
phân chia DH nêu và GQVĐ thành bốn mức độ ứng với các biện pháp
DH tương ứng
Mức độ 1: DH gợi mở vấn đề.
Mức độ 2: DH tương tác GQVĐ.
Mức độ 3: HS tự giải quyết tình huống có vấn đề.
Mức độ 4: DH tạo ra tình huống có vấn đề.
1.5 Thực trạng việc dạy học Vật lí 10 theo định hướng góp
phần phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh THPT
1.5.1 Nội dung và phương pháp điều tra
1.5.2 Kết quả điều tra
Sử dụng phiếu điều tra (phụ lục 1) dành cho 15 GV Vật lí ở một
số trường THPT tại địa bàn thành phố Đà Nẵng (cụ thể là THPT Phan
Châu Trinh, Trần Phú, Cẩm Lệ). Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy việc
DH Vật lí của GV ở các trường THPT theo PP này cũng khá phổ biến,
nhưng hầu hết việc DH này chưa thật sự hiệu quả, và kết quả đạt được
chưa nhiều.
1.5.3 Những ý kiến đề xuất phương hướng khắc phục những
hạn chế của việc vận dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề
trong dạy học Vật lí ở THPT
a. Tăng thời gian dạy một kiến thức nào đó theo PPDH nêu và
GQVĐ
b. Có hình thức khuyến khích HS trong khi học
c. Kết hợp sử dụng các PPDH khác
d. Giáo viên vận dụng linh hoạt PP nêu và GQVĐ và lựa
chọn nội dung kiến thức phù hợp với việc dạy theo PP này
e. Giáo viên xây dựng bộ câu hỏi định hướng phù hợp với
trình độ HS
f. Giáo viên sử dụng hợp lý các phương tiện DH
9
Kết luận chương 1
Trong chương này tôi đã nghiên cứu và trình bày một số vấn đề
về cơ sở lý luận của đề tài đó là:
1. Tìm hiểu về NL và phát triển NL cho HS THCS.
2. Tìm hiểu về NL GQVĐ.
3. Tìm hiểu một số phương pháp DH GQVĐ.
4. Tìm hiểu một số biện pháp sư phạm nhằm phát triển NL
GQVĐ cho HS.
5. Điều tra thực trạng DH theo định hướng góp phần phát triển
NL GQVĐ cho HS THPT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Trong chương 1, luận văn đã hệ thống các quan điểm của một
số tác giả về NL, NL GQVĐ, những thành phần của NL và NL GQVĐ.
Qua đó tôi nhận thấy, DH theo định hướng phát triển NL GQVĐ
cho HS THPT chưa được quan tâm đúng mức và DH chưa có hiệu quả
rõ rệt. Qua việc tìm hiểu lý luận và thực tiễn các vấn đề trên sẽ là cơ
sở để tôi triển khai nghiên cứu nội dung đề tài trong chương 2.
10
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC MỘT SỐ KIẾN THỨC
CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” VẬT LÍ 10 THEO
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1 Mục tiêu, nội dung và cấu trúc của chương “Các định
luật bảo toàn” trong chương trình Vật lí 10 THPT
2.1.1 Mục tiêu dạy học chương “Các định luật bảo toàn” Vật
lí 10 THPT theo chuẩn kiến thức kỹ năng
Mục tiêu DH giúp HS hiểu được các kiến thức của chương
và đạt được các kỹ năng cần thiết sau khi học xong các bài học.
2.1.2 Cấu trúc chương “Các định luật bảo toàn” Vật lí 10
THPT
Cấu trúc của chương: gồm 5 bài
+ Động lượng – định luật bảo toàn động lượng
+ Công và công suất
+ Động năng
+ Thế năng
+ Cơ năng
2.2 Thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy học chương
“Các định luật bảo toàn” – Vật lí 10 cơ bản
- Thuận lợi
+ HS: Đã quen với các PP học theo chương trình SGK mới như:
thảo luận nhóm, thường xuyên tiếp xúc với các phiếu học tập…
+ Giáo viên: đã được tham gia các lớp hướng dẫn về chương
trình, SGK mới; tập huấn về đổi mới PPDH; hàng năm Sở GD và ĐT,
các nhà trường tổ chức các chuyên đề chuyên môn bàn về chương trình
và SGK mới về đổi mới PP giảng dạy, tổ chuyên môn thường thảo luận
về các khó khăn khi dạy những phần kiến thức khó trong chương trình,
chia sẻ kinh nghiệm…
+ Chương trình: trong chương có nhiều kiến thức gắn liền với
các hiện tượng thực tế và được sử dụng nhiều cho các nội dung tiếp
theo của chương trình Vật lí THPT.
11
- Khó khăn:
+ Kiến thức cơ bản của chương này hoàn toàn mới, tương đối
khó, trừu tượng, nhiều hiện tượng Vật lí xảy ra nhưng rất nhanh, khó
quan sát, nhưng không có thí nghiệm minh họa hay kiểm chứng, HS
khó hình dung ra các hiện tượng.
+ Lượng kiến thức dành cho mỗi tiết học nhiều và khó, bài tập
vận dụng các kiến thức của chương đòi hỏi HS phải hiểu sâu lý thuyết
và biết cách vận dụng.
+ Các thí nghiệm cơ bản để dạy và học chương này không có,
GV và HS tự thiết kế, chế tạo (chủ yếu là GV). Không thể loại bỏ hoàn
toàn ma sát nên các thí nghiệm kiểm chứng có tính tương đối.
+ Để nghiên cứu chương này HS phải tiếp thu nhiều khái niệm
mới: xung lượng của lực, động lượng, hệ kín, lực thế và sự mở rộng và
đi sâu vào các kiến thức như: công, động năng, thế năng,...
+ Nội dung kiến thức trong bài học bao gồm nhiều kiến thức và
trong một kiến thức mới lại xuất hiện kiến thức mới (khi đề cập đến
khái niệm hệ kín thì xuất hiện khái niệm nội lực và ngoại lực). Ngoài
ra nội dung kiến thức còn đề cập đến sự phụ thuộc vào hệ quy chiếu của
các đại lượng như động lượng, động năng, thế năng,..
+ Chương “Các định luật bảo toàn” là chương kết thúc phần cơ
học lớp 10 và đây là kiến thức trọng tâm trong chương trình Vật lí. Bên
cạnh đó các bài học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau cũng như việc vận
dụng các kiến thức đã học vì vậy để hoàn thiện kiến thức đòi hỏi HS
phải vận dụng linh hoạt kiến thức
+ Bên cạnh đó, sử dụng PP năng lượng trong việc giải các bài
toán thì bài toán giải quyết trên cở sở đã biết hệ vật là hệ kín hoặc ít
nhất được coi là hệ kín. Trong quá trình giải các bài toán luôn sử dụng
các định luật bảo toàn hỗ trợ nhau. Rất ít khi dùng định luật bảo toàn
một cách riêng rẽ.
+ Mặt khác, tiến trình hình thành nội dung kiến thức theo sách
giáo khoa không hấp dẫn vì nhiều nội dung mang tính chất thông báo,
HS cảm thấy khô khan, nặng nề, nhàm chán vì vậy ta cần bổ sung một
số kiến thức, các bài toán dẫn dắt để giúp HS có khả năng tự lực tiếp