Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới
PREMIUM
Số trang
171
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
994

Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

LA NGUYỆT ANH

NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

LA NGUYỆT ANH

NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

2. TS. LÊ HỒNG MY

THÁI NGUYÊN - 2013

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công

trình nào khác.

Tác giả luận án

La Nguyệt Anh

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3. Mục đích nghiên cứu

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

6. Đóng góp mới của luận án

7. Cấu trúc của luận án

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI

1.1. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới giai đoạn 1932 - 1945

1.2. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới giai đoạn 1945 - 1985

1.3. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới từ 1986 đến nay

CHƯƠNG 2: THƠ MỚI – MỘT HÌNH THỨC GIAO TIẾP

NGHỆ THUẬT MỚI

2.1. Ngôn từ nghệ thuật - một hình thức giao tiếp đặc biệt

Trang

i

ii

1

1

3

3

4

4

5

6

7

7

7

12

14

24

24

iii

2.1.1. Khái niệm ngôn từ và ngôn từ nghệ thuật

2.1.2. Đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật và ngôn từ nghệ thuật thơ

2.2. Giao tiếp nghệ thuật Thơ mới - một hiện tượng văn hóa mới

2.2.1. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội dẫn đến sự ra đời của Thơ mới

2.2.2. Chủ thể lời nói trong giao tiếp nghệ thuật Thơ mới

2.2.2. Loại hình ngôn từ và tổ chức giao tiếp nghệ thuật Thơ mới

CHƯƠNG 3 : ĐẶC TRƯNG NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI

3.1. Ngôn từ Thơ mới mang đậm tính chủ quan, thiên về cảm xúc,

cảm giác

3.1.1. Sự chủ thể hóa ngôn từ Thơ mới

3.1.2. Sự đa điệu của cảm xúc, cảm giác

3.2. Ngôn từ Thơ mới tiếp nối và phát triển ngôn ngữ thơ trữ tình

truyền thống

3.2.1. Tiếp nối và phát triển ngôn ngữ thơ trữ tình dân gian

3.2.2.Tiếp thu những sáng tạo ngôn ngữ thơ trữ tình trung đại

3.2.3. Dịch chuyển gần hơn với ngôn ngữ đời sống

3.3. Ngôn từ Thơ mới có sự kết hợp giữa thơ Đường và thơ Pháp

3.3.1. Từ xung khắc đến hòa giải

3.3.2. Sự ra đời của một hình thức ngôn từ mới: hiện đại đầy cá tính

CHƯƠNG 4: TỔ CHỨC VĂN BẢN NGÔN TỪ NGHỆTHUẬT THƠ MỚI

4.1. Từ ngữ Thơ mới phong phú, đa dạng

4.1.1. Sáng tạo từ ngữ trên cơ sở kết ghép

4.1.2. Sáng tạo từ ngữ theo cơ chế chuyển nghĩa

4.2. Cú pháp Thơ mới linh hoạt, sáng tạo

24

28

38

38

44

49

53

53

53

56

64

64

71

77

80

80

84

93

93

93

99

104

iv

4.2.1. Xu hướng kế thừa cú pháp câu thơ truyền thống

4.2.2. Xu hướng nới lỏng cú pháp câu thơ Đường luật

4.2.3. Những bứt phá mới

4.3. Tổ chức bài thơ trong Thơ mới tự do, phóng khoáng

4.3.1. Tổ chức bài thơ theo dòng âm thanh ngôn ngữ

4.3.2. Tổ chức bài thơ theo dòng cảm xúc

4.3.3. Tổ chức bài thơ theo dòng tự sự

KẾT LUẬN

DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG

BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

104

114

117

125

125

135

140

145

148

149

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn học. Sáng tạo, tiếp nhận và đánh

giá văn học nói chung và thơ nói riêng không thể thiếu được yếu tố này. Ngôn

từ nghệ thuật (ngôn từ văn học) là một sự phân tầng khác của ngôn ngữ tự

nhiên, “tương xâm” nhưng không đồng nhất với ngôn ngữ tự nhiên. Nếu ngôn

ngữ tự nhiên thường mang tính ổn định, thì ngôn từ nghệ thuật - đặc biệt là

ngôn từ thơ - với tư cách là một “mã” nghệ thuật lại luôn thay đổi. Mỗi thời

đại văn học, mỗi trào lưu, khuynh hướng và mỗi tác giả lại có cách sử dụng

ngôn ngữ riêng để mang đến một “thực tại” và hình thức mới cho ngôn từ

nghệ thuật thơ.

1.2. Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam, phong trào Thơ mới (1932 –

1945) là một hiện tượng độc đáo, đặc sắc. Trên hành trình sáng tạo, các nhà

Thơ mới đã đạt được thành công rực rỡ, đặt nền móng vững chắc cho công

cuộc hiện đại hóa thơ Việt Nam. Hơn tám thập kỷ đã trôi qua, từ khi có “một

lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” đến nay, Thơ mới vẫn luôn thu hút sự

quan tâm, yêu mến của độc giả và của giới nghiên cứu - phê bình văn học.

Đặc biệt, những sáng tạo của Thơ mới về ngôn từ nghệ thuật luôn hấp dẫn

người sáng tác, người thưởng thức và những người nghiên cứu thơ.

1.3. Các công trình nghiên cứu và bài viết về Thơ mới đã khám phá ngôn

từ thơ ở nhiều phương diện như: vần thơ, nhịp thơ, nhạc điệu, từ ngữ, phương

thức biểu đạt, cấu trúc ngôn ngữ… Tuy nhiên, những khám phá, phân tích, lý

giải chủ yếu tập trung vào khẳng định sức sáng tạo của từng cây bút hoặc nét

độc đáo của từng thi phẩm. Trên hành trình nghiên cứu Thơ mới, nhiều vấn đề

đã được bàn đến, những thành tựu và cả phần hạn chế của Thơ mới đã được

khẳng định. Tuy nhiên, vấn đề ngôn từ nghệ thuật Thơ mới vẫn thiếu cái nhìn,

2

toàn diện, hệ thống và còn có những điểm cần tiếp tục đi sâu tìm hiểu, phân

tích, tổng hợp.

Tiếp thu thành tựu của những người đi trước, tìm hiểu kết quả nghiên

cứu về ngôn từ nghệ thuật những thập niên gần đây, chúng tôi thấy rằng, đã

đến lúc cần thiết và có cơ sở để thực hiện một công trình nghiên cứu chuyên

sâu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới; tiếp tục đáp ứng nhu cầu thưởng thức,

khám phá hiện tượng văn học độc đáo, đặc sắc này khi trình độ tiếp nhận văn

học và hiểu biết về Thơ mới của độc giả ngày càng được mở rộng, nâng cao.

Từ việc tập trung nhận diện, phân tích, đánh giá đặc trưng ngôn từ nghệ thuật

Thơ mới, luận án góp phần khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của

Thơ mới trong quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học Việt Nam thế kỷ XX.

1.4. Thơ mới có một vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn ở các

bậc học. Thực tiễn giảng dạy và học tập về Thơ mới đòi hỏi sự chiếm lĩnh ngày

càng sâu sắc những sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ, giúp người dạy và

người học nhận thức vai trò và ý nghĩa của “cuộc cách mạng thơ ca” - đặc biệt

là trên phương diện thể loại và ngôn ngữ - mà các nhà Thơ mới đã đóng góp

cho nền văn học nước nhà. Việc tìm hiểu, nghiên cứu nhằm đáp ứng nhu cầu

giảng dạy, học tập Thơ mới nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung

trong nhà trường cũng là một lý do thôi thúc chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề

tài này. Hy vọng kết quả nghiên cứu vấn đề Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới không

chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với tác giả luận án mà còn có ý nghĩa tích cực đối

với thực tiễn nghiên cứu, dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường.

Xuất phát từ những yêu cầu khoa học và nhu cầu thực tiễn trên, chúng

tôi lựa chọn đề tài: Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới.

3

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là ngôn từ nghệ thuật trong các

sáng tác của các nhà Thơ mới 1932 – 1945.

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, tập trung vào đối tượng nghiên cứu,

chúng tôi khảo sát, nghiên cứu sáng tác của các tác giả Thơ mới qua các tuyển

tập thơ và các tập thơ được xuất bản hoặc tái bản trong nước từ trước Cách

mạng tháng Tám đến nay, cụ thể là:

- Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh – Hoài Chân, Nxb Văn học, Hà Nội,

1998, in lần thứ 14)[172].

- Thơ mới (1932 - 1945): Tác giả và tác phẩm (Nxb Hội Nhà văn, H.,

2006, in lần thứ 6) [187].

Các tập thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới:

- Tâm hồn tôi của Nguyễn Bính (Impr. de Lê Cường, 1941) [11].

- Lửa thiêng của Huy Cận (Nxb Đời nay, 1940) [12].

- Thơ thơ (Nxb Hội Nhà văn, 1992, theo đúng bản in năm 1938) [23],

Gửi hương cho gió của Xuân Diệu (Nxb Thời đại, 1945) [24].

- Hoa niên của Tế Hanh(Nxb Đời nay, 1945) [60].

- Mê hồn ca của Đinh Hùng (Nxb Hội Nhà văn, tái bản, 1995) [71].

- Tinh huyết của Bích Khê (Trọng Miên xuất bản, 1940) [82].

- Tiếng thu của Lưu Trọng Lư (Impr. de Lê Văn Phúc, 1939) [103].

- Mấy vần thơ của Thế Lữ (Nxb Đời nay, 1941) [104].

- Gái quê của Hàn Mặc Tử (Nxb Hội Nhà văn, tái bản, 1992) [217].

- Điêu tàn của Chế Lan Viên (Nxb Hội Nhà văn, 1992, theo đúng bản in

năm 1938) [218]…

4

3. Mục đích nghiên cứu

- Nhận diện, phân tích, khái quát những đặc trưng cơ bản, cách thức tổ chức

và những đặc sắc trong tổ chức văn bản ngôn từ nghệ thuật Thơ mới. Khẳng

định những đóng góp đáng trân trọng của Thơ mới trong quá trình hiện đại hóa

thơ ca và hành trình cách tân ngôn ngữ văn học Việt Nam.

- Khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa sáng tạo ngôn từ và tư tưởng

nghệ thuật, giữa hình thức và nội dung; sự quy định của ý thức xã hội, trạng thái

tri thức và hệ thống quyền lực đối với sáng tạo ngôn từ nghệ thuật.

- Luận án cũng hướng tới khẳng định một hướng tiếp cận có hiệu quả trong

nghiên cứu, tiếp nhận và thưởng thức thơ ca.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu sau: 1) Khảo sát tình hình nghiên cứu

ngôn từ nghệ thuật Thơ mới; 2) Tìm hiểu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về ngôn

từ nghệ thuật và ngôn từ nghệ thuật Thơ mới; 3) Khái quát quá trình hình thành

hình thức giao tiếp nghệ thuật mới từ hiện tượng Thơ mới; 4) Chỉ ra đặc trưng cơ

bản và tổ chức văn bản nghệ thuật Thơ mới.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp cấu trúc - hệ thống

Nghiên cứu hệ thống bao hàm trong nó cả sự phân tích cấu trúc. Ngôn từ

nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ

với nhau. Vì vậy tất cả các vấn đề cụ thể được triển khai trong luận án đều

được đặt trong sự chi phối và tương tác với những yếu tố khác. Bởi vậy

phương pháp này giúp chúng tôi tiếp cận một cách hệ thống các yếu tố cấu

thành tạo nên chỉnh thể ngôn từ nghệ thuật Thơ mới, sự tương tác giữa các

thành tố ngôn từ.

5

5.2. Phương pháp thống kê, so sánh

Phương pháp này giúp chúng tôi thống kê, phân loại và mô tả cụ thể đặc

điểm ngôn từ nghệ thuật Thơ mới từ những khảo sát tin cậy với những số liệu

cụ thể làm cơ sở chắc chắn cho quá trình triển khai các luận điểm khoa học

của luận án. Tuy nhiên, để làm nổi bật nét đặc sắc và sự khác biệt, sự tiếp nối

và phát triển của ngôn từ nghệ thuật Thơ mới, bên cạnh thao tác thống kê

chúng tôi thường xuyên sử dụng thao tác so sánh nhằm phát hiện, lý giải

những yếu tố ảnh hưởng, tiếp biến, gặp gỡ, giao thoa và những cách tân ngôn

từ trong thời đại Thơ mới và trong thơ ca Việt Nam.

5.3. Phương pháp phân tích văn bản

Nếu phương pháp cấu trúc – hệ thống tạo nên diện thì việc phân tích văn

bản sẽ là điểm nhấn quan trọng tạo nên điểm của công trình nghiên cứu. Việc

đặt văn bản trong mối tổng hòa với hàng loạt tương quan và phân tích tháo gỡ

những tương quan hữu cơ đó được xem như sự minh họa sinh động gắn với

từng yêu cầu cụ thể của luận án.

5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Luận án vận dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu khoa học của nhiều

chuyên ngành: ký hiệu học, thi pháp học, ngôn ngữ học, lý thuyết thông tin

nhằm khám phá đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật Thơ mới. Tác giả luận án

cũng ý thức được rằng, vấn đề ngôn từ nghệ thuật còn liên quan đến nhiều

lĩnh vực khoa học như: văn hóa học, dân tộc học...Vận dụng phương pháp

nghiên cứu liên ngành, tác giả luận án mong muốn tránh được cái nhìn đơn

giản, phiến diện và những kết luận một chiều đối với kết quả nghiên cứu.

Sử dụng các phương pháp trên trong quá trình triển khai luận án, chúng

tôi mong muốn đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, đáp ứng tốt yêu cầu

của luận án.

6

6. Đóng góp mới của luận án

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về

Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới.

Luận án đã phân tích cụ thể những yếu tố nội sinh, ngoại sinh, những điều

kiện văn hóa, lịch sử… như là những tiền đề quan trọng tạo nên sự thay đổi của

ngôn từ nghệ thuật Thơ mới. Luận án khẳng định: Thơ mới là một hình thức diễn

ngôn nghệ thuật mới khác biệt với loại hình diễn ngôn thơ ca trước và sau nó.

Luận án đã khái quát những đặc trưng cơ bản của ngôn từ nghệ thuật Thơ

mới với những biểu hiện chủ yếu: mang đậm tính chủ quan, thiên về cảm xúc,

cảm giác, hiện đại và đầy cá tính. Luận án cũng cho rằng, sự đổi mới của ngôn

từ nghệ thuật Thơ mới là kết quả của quá trình tiếp thu và tiếp nhân những tinh

hoa nghệ thuật thơ ca truyền thống, tinh hoa nghệ thuật thơ ca nhân loại. Đây là

sản phẩm của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa.

Luận án đã lựa chọn và khai thác một số bình diện tiêu biểu trong tổ chức

văn bản ngôn từ nghệ thuật Thơ mới như: từ ngữ, cú pháp và tổ chức bài thơ;

trên cơ sở đó, luận án khẳng định những cách tân, những bứt phá mới và quá

trình hiện đại hóa ngôn ngữ thơ của thế hệ thi nhân Thơ mới.

Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công

tác nghiên cứu, dạy và học thơ ca Việt Nam hiện đại ngành Ngữ văn trong các

trường Cao đẳng, Đại học.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung chính

của luận án gồm bốn chương như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật Thơ mới

Chương 2: Thơ mới – Một hình thức giao tiếp nghệ thuật mới

Chương 3: Đặc trưng ngôn từ nghệ thuật Thơ mới

Chương 4: Tổ chức văn bản ngôn từ nghệ thuật Thơ mới

7

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH

NGHIÊN CỨU NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI

Hơn tám mươi năm qua, kể từ khi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam đến

nay, Thơ mới đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ. Ý kiến đánh giá về Thơ

mới khá đa chiều, đa diện, phản ánh sự phong phú trong cảm nhận nghệ thuật

và nghiên cứu khoa học của giới học thuật nước nhà. Những nhận định, đánh

giá về Thơ mới cho thấy quy luật nghiệt ngã của sáng tạo nghệ thuật: có thành

công, có thất bại; có khi được đón nhận, có khi bị khước từ, phê phán… Tuy

nhiên, đóng góp của Thơ mới ngày càng được khẳng định; các công trình

nghiên cứu về Thơ mới không ngừng tăng theo thời gian.

Quá trình triển khai đề tài, chúng tôi đã tập hợp một khối lượng lớn các

công trình nghiên cứu về Thơ mới; từ đó, tập trung vào các ý kiến, luận giải,

đánh giá về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới. Trong phần Tổng quan nghiên cứu

của luận án, kết quả khảo sát những công trình, chuyên luận, những bài báo

liên quan gần và trực tiếp đến ngôn từ nghệ thuật Thơ mới được tổng hợp, sắp

xếp theo trình tự thời gian; theo đó, có thể khái quát tình hình nghiên cứu

ngôn từ nghệ thuật Thơ mới qua các giai đoạn như sau:

1.1. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới giai đoạn 1932 - 1945

Ngày 10/3/1932, thời điểm Phan Khôi đưa Một lối thơ trình chánh giữa

làng thơ [184, tr.51-54] được xem là một mốc quan trọng chính thức đánh dấu

sự ra đời của Thơ mới. Sự hiện diện của Thơ mới đã làm đảo lộn khuynh

hướng tư tưởng, làm thay đổi nhận thức và tư duy thơ từng tồn tại hàng ngàn

năm trong nền thi ca Việt Nam. Cùng với sự xuất hiện của Thơ mới, diễn đàn

8

thơ từ Bắc vào Nam trở nên sôi động. Nhiều vấn đề về ngôn từ thơ đã được đề

cập đến qua các cuộc diễn thuyết và trên báo chí đương thời.

Người công kích Thơ mới đầu tiên và mạnh mẽ nhất có lẽ là ông Vân

Bằng. Mũi nhọn công kích chĩa thẳng vào Phan Khôi. Trên An Nam tạp chí số

39 ngày 30.4.1932, Vân Bằng đã phản ứng lại bằng bài: Tôi thất vọng vì Phan

Khôi [184, tr.55-56]. Với thái độ mỉa mai ông viết: “Ông Phan Khôi là một

nhà đại danh nho, đại tư tưởng, đại lý thuyết… Vừa đây, ông lại ra công

“sáng chế” một lối thơ “tân thời, tự do đặc biệt”, không cần niêm luật, tự ý

vắn dài …” [184, tr.55].

Trước sự “dị ứng” của Vân Bằng, các “chiến sĩ” Thơ mới đã lên tiếng.

Trong Phong hóa số 14 ngày 22/9/1932, mục Thơ, Văn Lực tỏ rõ sự phản đối

thơ cũ, bênh vực Thơ mới và kêu gọi: “Bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo

ngữ,…, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể,

mới ý tưởng” [105]. Trong Phụ nữ tân văn số 153 tháng 6 năm 1932, Lưu

Trọng Lư gửi Bức thư ngỏ cùng Phan Khôi tỏ ý hưởng ứng Thơ mới và trách

Phan Khôi “đánh trống bỏ dùi”. Phong hoá số 31 ngày 31/1/1933 đăng lại bài

này với tựa đề Lối Thơ mới [102] nhắc lại lời hô hào của số báo trước:

“Phong hóa đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào

trong khuôn sáo của của lối thơ Đường luật” và kêu gọi “mở rộng lãnh thổ”,

“đem cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi, vẫy vùng”.

Sang năm 1933, không khí tranh luận trở nên gay gắt. Thời gian này,

trên các báo: Văn học tạp chí, Nam phong, Tiếng dân, Văn học tuần san, Tin

văn… xuất hiện nhiều bài viết kịch liệt phê phán Thơ mới, ngợi ca Thơ cũ.

Trên Văn học tạp chí, Chất Hằng Dương Tự Quán liên tiếp tấn công Thơ mới

bằng các bài: Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi, hay là, Một cái tỉ hiệu giữa

Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu (số 18, ngày 1/6/1933), Thơ mới (số 22,

ngày 1/8/1933), Làm thế nào để đổi mới thơ (số 23 ngày 15/8/1933). Thương

9

Sơn có bài: Thơ mới tức là từ khúc (số 24 ngày 1/9/1933). Trên Tiểu thuyết thứ

bảy, Tàn Đà có các bài: Phong trào Thơ mới muốn cùng ai trong bạn làng thơ

(số 26, ngày 24/11/1934), Cùng các bạn làng thơ (số 28, ngày 8/12/1924), Câu

chuyện nói về thơ (số 32, ngày 5/1/1935). Trên Nam Phong, Nguyễn Hữu Tiến

có bài: Thơ mới với thơ cũ (số 193, Févier – Mars, 1934) [184]…

Nguyễn Hữu Tiến cho rằng:“Thơ mới này chỉ phóng theo được cái

“mốt” đặt vần… mỗi bài thơ là một mớ câu nói lổng chổng, không có kết cấu

liên lạc, điệu cách dịu dàng gì cả” [184, tr.141]. Trên Văn học tạp chí số 23,

TR.GI. chê các nhà thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng…

Trong số những tờ báo đương thời bênh vực, cổ vũ cho Thơ mới, tiêu

biểu là Phụ nữ Tân văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Phong hóa, Ngày

nay… với những bài viết của nhiều nhà thơ, nhà phê bình có tên tuổi, đặc biệt

là sự nhiệt tình ủng hộ của các tác giả Tự lực văn đoàn.

Đáp lại lời TR.GI (TR.GI chê các nhà thơ mới không biết dùng chữ),

trong Cuộc điểm báo (Phong hóa số 69, ngày 20-10-1933), Nhị Linh (Nhất

Linh) đã trả lời: “Nhà làm Thơ mới cân nhắc từng chữ để đắn đo xem chữ nào

diễn được cái cảm của mình tả được cái ý của mình đúng hơn hết, xem phải

cần đến chữ nào, câu Thơ mới có cái điệu khả dĩ diễn được sự rung động của

linh hồn một cách rõ rệt hơn”[98, tr.143]. Không phủ nhận, cũng không ngợi

ca một chiều, Nhị Linh chỉ rõ “trong Thơ cũ cũng có chỗ dùng đúng chỗ, diễn

đúng ý, và trong Thơ mới cũng có nhiều câu chỉ kêu mà không có hồn, song

nói về toàn thể, thì khác nhau…”[98, tr.144].

Trong bài luận về Thơ mới (Phong hóa số 97, ngày 11/5/1934)[184],

Nguyễn Tường Bách đã chỉ rõ ưu thế của Thơ mới: “Thơ mới đã có điệu,

cũng ngâm được, du dương, êm ái không khác gì thơ cũ. Mà âm điệu lại có

thể thay đổi theo những cảnh, những tính tính, êm đềm hay dữ dội trong bài

thơ”. Nguyễn Tường Bách khá khách quan khi phân tích hạn chế của thơ cũ,

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!