Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu tình trạng nhiễm rubella ở phụ nữ mang thai có nguy cơ và hội chứng rubella bẩm sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Bé gi¸o dôc ®µo t¹o Bé y tÕ
tr-êng ®¹i häc y hµ néi
==== ====
NGUYỄN QUẢNG BẮC
Nghiªn cøu t×nh tr¹ng nhiÔm rubella
ë phô n÷ mang thai Cã NGUY C¥ vµ HéI CHøNG RUBELLA
BÈM SINH t¹i bÖnh viÖn phô s¶n trung -¬ng
LuËn ¸n tiÕn sü y häC
Hµ néi – 2012
Bé gi¸o dôc ®µo t¹o Bé y tÕ
2
tr-êng ®¹i häc y hµ néi
==== ====
NguyÔn QU¶ng B¾c
Nghiªn cøu t×nh tr¹ng nhiÔm rubella
ë phô n÷ mang thai Cã NGUY C¥ vµ HéI CHøNG RUBELLA
BÈM SINH t¹i bÖnh viÖn phô s¶n trung -¬ng
Chuyªn ngµnh : s¶n khoa
M· sè : 62.72.13.01
LuËn ¸n tiÕn sü y häc
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc:
PGS.TS. Ph¹m huy hiÒn hµo
Gs.TS. trÇn thÞ ph-¬ng mai
Hµ néi - 2012
LỜI CẢM ƠN
3
Nhân dịp hoàn thành luận án, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn chân
thành tới:
- Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học, Bộ môn Phụ sản
Trường Đại học Y Hà Nội đã giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi trong thời gian qua.
- Ban giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Phòng kế hoạch tổng hợp,
Phòng nghiên cứu khoa học, Khoa sản 3, Trung tâm chẩn đoán trước sinh, Trung
tâm kế hoạch hóa gia đình, Khoa sơ sinh, Khoa sinh hóa, Thư viện và các khoa
phòng đã tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận án.
- Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Phó Giáo sư, Tiến sỹ
Phạm Huy Hiền Hào; Giáo sư, Tiến sỹ Trần Thị Phương Mai, những người
thầy có nhiều kiến thức, kinh nghiệm đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình học tập, thực hiện đề tài cũng như hoàn thành luận án.
- Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế,
Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Chủ nhiệm Bộ môn Phụ sản, Trường
Đại học Y Hà Nội đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành luận án này.
- Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Ngô Văn Toàn đã rất quan tâm và tư
vấn hỗ trợ tôi về mặt kỹ thuật trong quá trình phân tích số liệu và cho tôi
nhiều ý kiến quý báu hoàn thành luận án.
- Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin chân thành cảm ơn tới các Giáo sư,
Tiến sỹ trong hội đồng thông qua đề cương và hội đồng chấm luận án tốt
nghiệp đã cho tôi nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án này.
4
- Tôi vô cùng biết ơn các Thầy, Cô, bạn bè đồng nghiệp đã động viên và
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
- Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới cha mẹ, vợ, con và người
thân trong gia đình đã luôn cảm thông chia sẻ và là động lực giúp tôi vượt
qua những khó khăn để đạt được kết quả khoá học và hoàn thành luận án.
Hà Nội, ngày 7 tháng 12 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Quảng Bắc
5
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả, số liệu thu thập được trong luận văn là trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Nguyễn Quảng Bắc
6
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BN Bệnh nhân
BVPSTW
BP
CRS:
Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Base pair
Congenital rubella syndrome (Hội chứng Rubella bẩm sinh)
CS
CVS:
Cộng sự
Chorionic villus sampling (Sinh thiết gai rau)
DEA Diethylamine
ELISA: Enzyme linked immunoassay (Xét nghiệm miễn dịch liên kết enzym)
EIA Enzyme immunoassays (Xét nghiệm miễn dịch enzym)
HC Hội chứng
HIT Hemagglutinin Inhibition Test (xét nghiệm ức chế ngưng kết hồng cầu)
IgG: Immunoglobulin G
IgM: Immunoglobulin M
MMR: Measles, Mumps, Rubella (Sởi, quai bị, rubella)
PCR: Polymerase chain reaction (Phản ứng chuỗi)
Protein C
PNMT
RK
RNA:
Protein Capsid
Phụ nữ mang thai
Rabbit kidney (Thận thỏ)
Ribonucleic acid
RV:
RT-nPCR:
Rubella vi rút
Reverse transcription-nested PCR (phản ứng khuếch đại gen- nestedPCR)
7
SLAM
SL
Signaling lymphocyte activation molecule (dấu hiệu hoạt hóa phân tử tế bào
lympho)
Số lượng
TSS
XN
VMK
Trẻ sơ sinh
Xét nghiệm
Vero Monkey Kidney (tế bào Vero thận khỉ)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rubella được phát hiện cách đây hơn 150 năm, được tìm ra bởi người
Đức, De Bergen năm 1752 và Orlow năm 1758 [88]. Đến năm 1962, Parkman
mới phân lập được vi rút rubella là nguyên nhân gây bệnh [123]. Sau một thời
gian rubella ít xuất hiện, đến năm 1970 rubella xuất hiện trở lại hầu hết là xảy
ra ở trẻ em và người trẻ tuổi. Đến năm 1999, người lớn bị nhiễm chiếm 86%
trường hợp, 73% những người mắc rubella là những người nhập cư có nguồn
gốc từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Hầu hết những người được sinh ra ở
nước ngoài, dịch bệnh bùng phát xảy ra đối với những người di cư từ Mexico
và Châu Mỹ [73]. Ở Hoa Kỳ, theo McElhaney và cộng sự, tỷ lệ phụ nữ bị
nhiễm 25% [106], theo Amy Jonhson và Brenda Ross, tỷ lệ nhiễm từ 10 - 20%
[15]. Rubella có thể gây ra nhiều biến chứng, yếu tố liên quan đến sức khỏe
cộng đồng được đặt ra là rubella gây ra thai dị tật bẩm sinh. Với những phụ
nữ mang thai nhiễm rubella nguyên phát ở những tuần đầu thai nghén, thì vi
rút rubella có thể vào thai nhi và gây ra hội chứng rubella bẩm sinh ở trẻ nhỏ.
8
Phụ nữ mang thai bị nhiễm rubella càng sớm thì hậu quả đến thai nhi càng
nặng nề, đặc biệt trong 3 tháng đầu của thai nghén. Theo Miller và cộng sự, tỷ
lệ ảnh hưởng đến thai nhi dưới 12 tuần là 80%, từ 13- 14 tuần là 54%, 3 tháng
giữa và 3 tháng cuối là 25%, tỷ lệ ảnh hưởng chung lên thai nhi là 9% [113].
Hội chứng rubella bẩm sinh có thể bao gồm 1 hoặc nhiều triệu chứng: khiếm
khuyết ở mắt, các dị tật về tim, động mạch, khiếm khuyết về hệ thống thần
kinh, ban xuất huyết, bệnh về xương.
Ở Việt Nam, tác giả Lê Diễm Hương, đã nghiên cứu về tình trạng phụ nữ
nhiễm rubella [7], báo cáo một số trường hợp rubella bẩm sinh [8], Hoàng Thị
Thanh Thủy, đã nghiên cứu tình hình đình chỉ thai nghén vì nhiễm rubella tại
Bệnh viện Phụ sản Trung ương 6 tháng đầu năm 2011 [10]. Năm 2011, trong cả
nước xảy ra đại dịch rubella, hàng nghìn phụ nữ mang thai bị nhiễm rubella, hơn
2000 phụ nữ mang thai bị nhiễm rubella đến trung tâm chẩn đoán trước sinh
Bệnh viện Phụ sản Trung ương tư vấn, hơn 1000 phụ nữ mang thai nhiễm
rubella bị đình chỉ thai nghén, gần 100 trẻ sơ sinh bị hội chứng rubella bẩm sinh.
Tuy nhiên, ở Việt Nam nói chung và ở khu vực miền Bắc nói riêng, chưa có
nghiên cứu nào về tình hình nhiễm rubella trong thời kỳ thai nghén và ảnh
hưởng đến thai nhi của người mẹ bị nhiễm rubella trong thời kỳ mang thai.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu tình
trạng nhiễm rubella ở phụ nữ mang thai có nguy cơ và hội chứng rubella
bẩm sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương”, với hai mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm mới rubella, các dấu hiệu lâm sàng, miễn
dịch và một số yếu tố liên quan ở những phụ nữ mang thai có
nghi ngờ nhiễm rubella trên lâm sàng tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ƣơng năm 2009- 2011.
9
2. Mô tả các dấu hiệu bất thƣờng của thai nhi và trẻ sơ sinh ở phụ
nữ mang thai nhiễm rubella.
10
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số đặc điểm của vi rút rubella
Vi rút rubella gây bệnh ―Sởi Đức‖. Bệnh đặc trưng bởi sốt, nổi ban, và
tổn thương hạch bạch huyết. Bệnh ảnh hưởng chủ yếu đến trẻ em và thiếu
niên và những người trẻ tuổi. Phụ nữ mang thai trong những tháng đầu nếu bị
nhiễm rubella, vi rút có thể qua rau thai truyền sang thai nhi và gây rubella
bẩm sinh. Bệnh thường nhẹ, tự khỏi. Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu,
nhưng phòng bệnh bằng vắc xin rất có hiệu quả [40], [72], [88].
1.1.1. Đặc điểm sinh vật học
Vi rút rubella là thành viên duy nhất của nhóm Rubivirus, thuộc họ
Togaviridae. Cho đến nay, mới chỉ có một kiểu gen được xác định. Vi rút
rubella khác biệt về mặt huyết thanh học với các vi rút khác thuộc họ
Togaviridae, bao gồm cả nhóm Alphavirus genus [40]. Alphaviruses và vi rút
rubella có nhiều cấu trúc giống nhau về mặt di truyền cũng như cách nhân lên
trong tế bào chủ. Alphaviruses lan truyền từ côn trùng tiết túc sang người, còn
vi rút rubella lan truyền giữa người và người.
Vi rút hình cầu, đường kính từ 40 đến 80 nm, chứa một sợi ARN. Phần
nhân của vi rút là một cấu trúc đậm đặc khi nhìn bằng kính hiển vi điện tử,
đường kính 30 đến 35 nm được bao bọc bởi lớp vỏ bao lipoprotein. Bề mặt
của vi rút có những yếu tố gây ngưng kết hồng cầu trông giống như hình
những gai nhọn. Hạt vi rút chứa 3 cấu trúc polypeptide: 2 glycoprotein màng
E1, E2 và một protein capsid (protein C) gắn với ARN không bị glycosyl hoá.
Protein vỏ bao E1 có khả năng gây ngưng kết hồng cầu và tạo kháng thể trung
hoà hạt vi rút. E2 có hai dạng E2a và E2b. Sự khác nhau giữa các chủng vi rút
rubella là do sự khác biệt về mặt kháng nguyên của E2 [32], [33], [40], [72],
[84], [120], [158].
11
Hình 1.1. Hình ảnh cấu trúc vi rút rubella [58]
1.1.2. Đặc điểm quá trình phát triển của vi rút
1.1.2.1. Quá trình bám dính và xâm nhập
Sự bám dính của vi rút rubella lên các thụ thể của tế bào liên quan đến
sự bám của các phân tử glycoprotein E2 và hoặc E1. Mặc dù các thụ thể của
tế bào đặc hiệu đối với rubella hoặc là các vị trí gắn của thụ thể trên 1 hoặc 2
protein nói trên vẫn chưa được xác định một cách chính xác. Cả hai thụ thể tế
bào và các vị trí gắn thụ thể trên glycoprotein đã được xác định đối với các
alphaviruses [116].
Sự xâm nhập của RNA vi rút vào nội bào liên quan đến sự thay đổi cấu
hình của protein E1 hoặc E2, vi rút rubella bám dính màng tế bào làm lộ petide
trong protein E1 và cho phép sự hòa màng của vi rút với màng tế bào vật chủ
dẫn đến sự xâm nhập. Vì vỏ nhân được bám vào màng của hạt vi rút qua đầu
tận C của các protein C, do đó, người ta chưa rõ liệu có phải việc hòa màng và
cởi bỏ lớp vỏ nhân là các quá trình riêng biệt [96].
12
1.1.2.2. Sự nhân lên của bộ gen vi rút
Sự nhân lên của bộ gen rubella bắt đầu với việc tổng hợp các
polyprotein không cấu trúc. Người ta cho rằng, các polyprotein này nhận ra
một vùng khởi đầu ở đầu tận bộ gen và tổng hợp nên một ARN sợi âm. ARN
này được cho là hình thành một cấu trúc sợi đôi làm trung gian cùng với ARN
bộ gen. ARN sợi âm của bộ gen sau đó được dùng làm khuôn mẫu cho việc
tổng hợp cả ARN của bộ gen và ngoài bộ gen [72].
1.1.2.3. Sự lắp ráp của các hạt vi rút
Đối với rubella, quá trình nảy chồi dường như không có những cách
thức riêng rẽ đối với glycoprotein và nucleocapsid, có thể vì protein C được
bao bởi màng qua trình tự tín hiệu E2. Ba protein cấu trúc của vi rút rubella
được dịch mã từ ARN ngoài bộ gen thành các polyprotein. Polyprotein này
sau đó được cắt thành các protein riêng lẻ nhờ enzym signalase [71]. Các
protein E1 và E2 qua quá trình glycosyl hóa trực tiếp. Tại đó, vị trí glycosyl
hóa vùng N xảy ra ở trong lưới nội sinh chất có hạt. Vùng glycosyl hóa tại vị
trí O của protein E2 chưa được xác định nhưng protein E2 có chứa các trình
tự để giúp protein khu trú tại bộ Golgi. Sự kết hợp của protein E1 với E2 cần
cho quá trình E1 thoát khỏi lưới nội sinh chất có hạt [175]. Protein C phải kết
hợp với ARN của vi rút tại một thời điểm nào đó trong quá trình vi rút lắp
ráp. Sự lắp ráp hoặc cởi vỏ của các nucleoprotein hạt vi rút và quá trình vi rút
nhân lên được điều hòa bằng quá trình phosphoryl và loại phosphoryl hóa của
protein C; sự phosphoryl hóa ức chế việc hình thành nucleocapsid [99].
1.1.2.4. Dịch tễ học phân tử của vi rút rubella
Mặc dù một thực tế là vi rút rubella có tổ chức bộ gen giống với
alphavirus, nhưng mối quan hệ giữa chi Rubivirus và Alphavirus là khá xa và
sự liên quan đến tiến hóa của rubella và alphavirus khá phức tạp [71], [94].
13
Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây cho thấy, các chủng rubella đang lưu
hành trên thế giới và các vi rút nói trên được xếp vào một số nhóm nhỏ trong
phân loại di truyền về phát sinh loài [91], [178]. Những rubella này được xếp
vào hai nhánh, trước đây gọi là kiểu gen, khác nhau khoảng 8 - 10% trình tự
nucleotid [70], [91]. Mỗi nhánh có một số kiểu gen [70], [178]. Một sơ đồ
phân loại do tổ chức y tế thế giới đề xuất năm 2004 có 2 nhánh cùng 7 kiểu
gen và 3 kiểu gen dự phòng [171]. Dịch tễ học phân tử có vai trò quan trọng
hỗ trợ cho việc kiểm soát và phòng bệnh bằng vắc xin như bại liệt và sởi.
Người ta cũng đã thấy sự thay đổi của các chủng rubella đang lưu hành và
những thông tin đó giúp cho nghiên cứu dịch tễ học phân tử của rubella có thể
hỗ trợ cho các hoạt động kiểm soát và hạn chế dịch [170]. Một số kiểu gen
của rubella có sự lưu hành hạn chế về địa dư. Điều này cho phép chúng ta
thấy sự xuất hiện một số vụ dịch lẻ tẻ do những kiểu gen này gây ra ở một số
vùng nhất định [36], [87], [134], [171].
Cho dù nguồn gốc phát sinh loài và dịch tễ học phân tử của rubella đã
trở nên rõ ràng nhưng đơn vị phân loại học sử dụng cho nghiên cứu dịch tễ
học phân tử của vi rút này vẫn cần được xác định thêm trong một số tình
huống. Các chủng rubella ở những cộng đồng như vậy rất đa dạng phản ánh
những vụ dịch có thể xảy ra, hay sự du nhập các chủng vi rút từ các nơi
khác nhau. Trong cùng một kiểu gen có thể có nhiều dòng vi rút khác nhau
và những thông tin như vậy khá hữu dụng trong việc theo dõi và nghiên
cứu [58], [179].
1.1.2.5. Phản ứng miễn dịch trong nhiễm rubella
Nhiễm rubella tạo ra miễn dịch đặc hiệu. Miễn dịch này tồn tại suốt
đời, kháng thể trung hoà và kháng thể ức chế ngưng kết hồng cầu xuất hiện
ngay sau khi có phát ban và đạt mức cao nhất sau 1 đến 4 tuần. Các kháng thể
này có vai trò bảo vệ cơ thể chống lại việc tái nhiễm rubella sau này. Tuy
14
nhiên, cũng có trường hợp nhiễm vi rút thứ phát với các chủng hoang dại hoặc
từ vắc xin. Các trường hợp này thường không có triệu chứng và chỉ biểu hiện
bằng sự tăng hiệu giá kháng thể đặc hiệu trong huyết thanh. Miễn dịch qua
trung gian tế bào hình thành trong giai đoạn hồi phục và tồn tại hàng năm sau
nhiễm vi rút [11], [88].
Nhìn chung, người đã nhiễm rubella hoặc được tiêm vắc xin ít bị nhiễm
lại hoặc có bị, nhưng biểu hiện thường nhẹ. Có thể nói rằng, một nửa số
trường hợp nhiễm rubella không biểu hiện dấu hiệu lâm sàng mà chỉ có thể
phát hiện được bằng xét nghiệm. Do vậy, việc phân biệt ban đỏ trên bệnh
nhân đơn thuần chỉ dựa vào thăm khám lâm sàng là rất khó khăn [15], [60].
Dựa vào các nghiên cứu, việc phân tích kết quả huyết thanh học phát
hiện các kháng thể đặc hiệu như IgG, IgM và ái tính của IgG là các xét
nghiệm được dùng phổ biến hiện nay và cho phép định hướng trong nhiều
trường hợp để phân biệt nhiễm mới và tái nhiễm [136]. Các phương pháp sử
dụng trong huyết thanh học chủ yếu sử dụng kỹ thuật miễn dịch gắn enzyme,
xét nghiệm ức chế ngưng kết hồng cầu và kháng thể huỳnh quang [24], [28],
[136]. Kỹ thuật quang hóa khuếch đại enzyme để phát hiện kháng thể cũng là
một kỹ thuật tương đương dùng để sàng lọc trước sinh. Kỹ thuật này thuận lợi
là có thể chạy được nhiều mẫu cùng một lúc [164]. ELISA là một kỹ thuật có
độ nhạy cao, đơn giản và có nhiều kỹ thuật khác cải tiến của kỹ thuật này
[136], [150]. Với quan điểm của huyết thanh học, nhiễm rubella cấp tính đặc
trưng bởi sự tăng nồng độ kháng thể và sự xuất hiện của IgM trong vòng 5
ngày sau khi có phát ban, IgM có thể tồn tại tới 6 tuần [86]. Người ta thường
sử dụng xét nghiệm miễn dịch enzyme để phát hiện IgM [136]. Tipples và
cộng sự khi so sánh 7 loại xét nghiệm miễn dịch enzyme phát hiện IgM đã
cho thấy, độ nhạy của kỹ thuật từ 66,4 đến 78,9% và độ đặc hiệu từ 85,6 đến
15
96,1% [154]. Nói chung, sự xuất hiện của kháng thể IgM đặc hiệu với rubella
không phải lúc nào cũng tương ứng với tình trạng nhiễm vi rút cấp tính. Thực
tế, người ta đã thấy rằng, một số xét nghiệm xác định IgM đặc hiệu với
rubella có thể cho kết quả dương tính giả ở những bệnh nhân nhiễm
parvovirus, nhiễm trùng gây tăng bạch cầu đơn nhân trong máu hoặc ở bệnh
nhân có yếu tố dạng thấp [13]. Thêm nữa, cũng có tình trạng : ―người mang
IgM mạn tính‖. Kháng thể này có thể tồn tại tới 1 năm hoặc hơn sau nhiễm vi
rút tự nhiên do rubella, sự tái nhiễm không có triệu chứng hoặc do tiêm vắc
xin [22], [153]. Để có được chẩn đoán chính xác và thông tin cụ thể về thời
điểm nhiễm vi rút trong những trường hợp không chắc chắn, cần phải làm xét
nghiệm xác định ái tính của IgG. Nguyên tắc là với các nhiễm cũ rubella thì
trong máu sẽ có nhiều IgG có ái tính cao, nếu là nhiễm mới (nhiễm vi rút cấp)
thì có kháng thể IgG có ái tính thấp [21], [150]. Trong thực tế, mức độ ái tính
của kháng thể xuất hiện và tăng lên trong trong 3 tháng đầu sau khi bệnh nhân
có phát ban và chỉ số ái tính biểu hiện tới 6 tuần sau nhiễm vi rút tiên phát
[29]. Việc xác định ái tính của kháng thể IgG có vai trò quan trọng và có ý
nghĩa tư vấn đối với các trường hợp cần chẩn đoán phân biệt giữa nhiễm vi
rút nguyên phát với một số trường hợp khác như nhiễm cũ, tái nhiễm, sau
tiêm vắc xin, dương tính giả với IgM hoặc tình trạng ―mang IgM mạn tính‖
[29]. Việc phát hiện IgM, IgG và ARN của vi rút trong nước bọt thay vì phát
hiện trong máu cũng đã được làm và sử dụng để chẩn đoán nhiễm vi rút
rubella [12], [21], [130], [169]. Trong một nghiên cứu của Ramsay và cộng sự
(1998), các xét nghiệm sử dụng nước bọt có độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt
là 98% và 100% đối với IgG, độ đặc hiệu 99% với IgM khi so sánh với các
xét nghiệm miễn dịch và độ nhạy nói chung đạt 81% [131]. Các xét nghiệm
sử dụng nước bọt cần lưu ý việc lấy bệnh phẩm trong vòng 7 đến 42 ngày sau
khi bệnh khởi phát và vận chuyển ngay tới phòng xét nghiệm. Để xác định