Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

nghiên cứu tình trạng di căn hạch nách và kết quả điều trị ung thư tuyến vú bằng phẫu thuật cắt vú
PREMIUM
Số trang
121
Kích thước
2.0 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
931

nghiên cứu tình trạng di căn hạch nách và kết quả điều trị ung thư tuyến vú bằng phẫu thuật cắt vú

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư vú không những là một loại ung thư hay gặp nhất ở phụ nữ mà còn

là nguyên nhân chính gây tử vong do ung thư đối với phụ nữ tại nhiều quốc gia

trên thế giới.

Tỷ lệ tử vong thay đổi nhiều từ 25 - 35/100.000 dân tại Anh, Đan Mạch, Hà

Lan, Hoa Kỳ và Canada đến 2 - 5/100.000 dân ở Nhật, Mehico, Venezuela [9].

Tỷ lệ mắc bệnh hàng năm tăng cao ở các nước Bắc Mỹ và châu Âu, trong

khi ở các nước châu á và châu Phi có xu hướng thấp hơn. ở Hoa Kỳ trong năm

1993, đã có 182.000 ca ung thứ vú mới mắc ở phụ nữ. Tỷ lệ hằng năm theo ước

tính 100,2 ca mới/100.000 dân. Từ năm 1973, tỷ lệ đã tăng trung bình hằng năm

1,8% [117].

Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới, ung thư vú đứng hàng thứ 2 tại các

nước Đông Nam á (sau ung thư phổi) và chiếm 20% trong tổng số các ung thư ở

phụ nữ [117].

Tại Việt Nam, ung thư vú ngày càng có xu hướng tăng cao. Theo nghiên

cứu ghi nhận ung thư của Phạm Hoàng Anh và Nguyễn Bá Đức (2002) ung thư

vú đứng hàng đầu trong tất cả các loại ung thư phụ nữ và chiếm 15% tổng số các

ung thư [1]. Bệnh viện K đã tiến hành ghi nhận quần thể cho ung thư vú trên

người Hà nội và công bố tỷ lệ mới mắc hàng năm là 29,8/100.000 dân vào năm

2000[10]. Tính chung cả nước, ung thư vú vẫn đứng hàng thứ 2 trong số 10 loại

ung thư hay gặp nhất ở phụ nữ với tỷ lệ 12,2% và đứng hàng thứ 6 trong tổng số

ung thư chung cho cả 2 giới [10], [16].

Theo Nguyễn Mạnh Hùng và Lê Đình Roanh, đa số các trường hợp bệnh

nhân được khám và điều trị tại Bệnh viện K Hà Nội đều ở giai đoạn muộn (T1:

2%, T2: 43%, T3: 23% và T4: 32%) [17]. ở nước ta hiện nay, việc điều trị ung

thư vú chưa thống nhất về một phác đồ hoàn chỉnh. Kế hoạch điều trị tuỳ thuộc

vào giai đoạn của bệnh, thường sử dụng kết hợp thay đổi giữa phẫu thuật, xạ trị

2

và hóa trị, thỉnh thoảng mới chỉ định điều trị đơn độc. Mười năm trở lại đây, với

sự hiểu biết đầy đủ về bệnh sử tự nhiên của ung thư vú và việc sàng lọc chẩn

đoán sớm ngày càng phát triển, bệnh nhân vào viện ở giai đoạn còn mổ được đã

tăng lên, nên cách điều trị đã thay đổi đáng kể, chủ yếu giải quyết 2 vấn đề:

- Tại chỗ: bằng phẫu thuật hoặc phối hợp với xạ trị.

- Toàn thân: bằng hóa trị, nội tiết hoặc miễn dịch.

Như vậy, dựa vào cơ sở nào để quyết định việc điều trị toàn thân hay tại

chỗ? Những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy rằng việc phân tích hạch

nách trong ung thư vú có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc quyết định

điều trị và có ý nghĩa lớn về tiên lượng thông qua sự xác định về mức độ di căn

hạch, tỷ lệ hạch di căn, thể loại giải phẫu bệnh, độ mô học...

Chính vì vậy, phẫu thuật trong ung thư vú bao giờ cũng đóng vai trò then

chốt trong quá trình điều trị. Kể từ năm 1930, phẫu thuật cắt vú triệt để cải biên

lần đầu tiên được Patey đề xuất và mãi đến năm 1948, phẫu thuật này đã thay

thế cho phẫu thuật cắt vú triệt để của Halsted do tính ưu việt về thẩm mỹ và hiệu

quả điều trị là ngang nhau. Từ đó đến nay, đã có nhiều thủ thuật cải biên chủ yếu

là liên quan đến vấn đề vét hạch nách: Auchincloss (1963), Madden (1965) chủ

trương vét hạch nách giới hạn ở mức I, II, Scanlon (1976) vét hạch nách mức I,

II, III mà vẫn bảo tồn được cơ ngực lớn, cơ ngực bé [132] .

ở nước ta, các phương pháp phẫu thuật cắt vú triệt để cải biên đã được áp

dụng tại nhiều bệnh viện nhưng chủ yếu là phương pháp Patey và Auchincloss.

Tuy nhiên, trong điều kiện của một tỉnh miền Trung khi mà công tác sàng lọc

phát hiện sớm ung thư vú chưa được tiến hành rộng rãi, tỷ lệ bệnh nhân nhập

viện giai đoạn muộn còn cao thì việc chọn lựa phẫu thuật cắt vú triệt để cải biên

có vét hạch nách giới hạn là khó phù hợp. Chúng tôi nghĩ rằng phẫu thuật như

vậy sẽ không đánh giá đầy đủ tình trạng di căn hạch nách và rất khó khăn cho

tiên lượng, đặc biệt là người dân không phải ai cũng có đủ điều kiện để điều trị

bổ trợ bằng hoá chất, nội tiết trong một thời gian dài. Việc chọn lựa phẫu thuật

cắt vú triệt để cải biên theo Scanlon là một cải tiến của phương pháp Patey

3

không những khắc phục được những hạn chế trên mà còn có tính ưu việt về

thẩm mỹ do bảo tồn được các cơ ngực. Do vậy, chúng tôi chọn lựa phẫu thuật

này làm phương tiện vừa để chẩn đoán vừa để điều trị bệnh tại chỗ.

Ngoài những lý do mang tính chuyên môn kể trên, thì ở miền Trung vẫn

chưa có một báo cáo nào đáng khích lệ nhằm bổ sung vào bức tranh toàn cảnh

ung thư vú ở nước ta. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu tình trạng di

căn hạch nách và kết quả điều trị ung thư tuyến vú bằng phẫu thuật cắt vú

triệt để cải biên (phẫu thuật Scanlon)" làm luận án Tiến sĩ.

Mục đích của đề tài:

1. Đánh giá tình trạng di căn hạch nách trên bệnh nhân ung thư tuyến vú

giai đoạn II, IIIA bằng phẫu thuật cắt vú triệt để cải biên theo Scanlon tại Bệnh

viện Trung ương Huế.

2. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật bằng theo dõi tái phát di căn và tỷ

lệ sống thêm đối với bệnh nhân ung thư tuyến vú ở giai đoạn trên.

4

C¬ ngùc lín

C¬ r¨ng tr-íc

C¸c d©y ch»ng

Cooper

C¸c tuyÕn

quÇng vó

quÇng vó

bãng

Mì §Çu vó

C¸c èng dÉn

s÷a

C¸c tiªñ thuú

tuyÕn

H×nh 1.1. Gi¶i phÉu tuyÕn vó

(Nguån: Atlas gi¶i phÉu ng-êi, 1994, Frank. H. Netter, tr.185)

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 SƠ LƢỢC GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ TUYẾN VÚ

1.1.1.Giải phẫu tuyến vú và vùng nách ở người trưởng thành

1.1.1.1. Giải phẫu tuyến vú

Tuyến vú kéo dài theo hướng thẳng đứng từ xương sườn II đến VI, nằm

ngang từ bờ bên xương ức cho đến đường nách giữa. Phần lớn nhất của vú

(khoảng 2/3) nằm trên cơ ngực lớn và phần còn lại nằm trên cơ răng trước. Vú

có hình bán cầu như cái lưỡi, có thể vồng lên, xuống, ngang. Sở dĩ vậy là do có

đuôi nách Spence. Đây là một chỗ mô vú nối dài từ phần trên ngoài của vú,

ngang qua cửa ngõ của hố nách, gọi là lỗ Langer. Vì thế, mặc dù vú ở phía ngoài

hố nách nhưng đuôi nách lại nằm sâu trong hố này. Điều này liên quan trực tiếp

5

đến các tuyến vùng nách, vì thế nó rất dễ bị hiểu lầm là một khối u hay là hạch

bạch huyết vùng nách [22],[33].

Mặt sau của vú nằm trên mạc cân bao phủ lấy cơ ngực lớn và cơ răng

trước. Tuyến vú gồm nhiều thùy (thường là 12 thùy) từ đó phân chia thành nhiều

tiểu thùy, những tiểu thùy này lại gồm nhiều nang tuyến. Các thùy tuyến vú sắp

xếp theo hình nan hoa tập trung vào núm vú và mỗi thùy được dẫn lưu bởi một

ống tuyến dẫn sữa, có 12 đến 20 ống tuyến như vậy đổ vào núm vú. Toàn bộ tổ

chức này nối với phần da ngực bởi một hệ thống sợi gọi là dây chằng Cooper.

Những dây chằng này quan trọng về mặt lâm sàng, vì một khi những tế bào ung

thư xâm lấn sẽ làm cho chúng co rút lại, làm cho da bị co kéo hoặc là dính vào

da vú. Những ống tuyến đổ vào núm vú một cách độc lập, mỗi ống lại có một

bóng dãn ra ở phần cuối [22], [dt 70]

Núm vú có hình nón và thường nằm ngang ở vùng gian sườn thứ IV. Đáy

núm vú được bao bọc xung quanh bởi một vùng sắc tố tròn, đường kính khoảng

5cm gọi là quầng vú. Quầng vú và núm vú có màu sắc thay đổi tùy theo từng

người, ở người trẻ tuổi thường có màu hồng, trong thời kỳ có thai chúng trở nên

nâu hơn. ở quầng vú có nhiều nhú nhỏ gọi là những tuyến Montgomery quầng vú.

Đây là những tuyến nhầy có tác dụng bôi trơn núm vú trong thời kỳ tiết sữa [22],

[33].

1.1.1.2. Hệ thống bạch huyết tuyến vú

Hệ thống bạch huyết tuyến vú rất phong phú, rải khắp tuyến vú và được

nối với các hệ thống bạch huyết lân cận. Có thể chia ra hệ thống bạch huyết

trong và ngoài vú [dt 13], [33]:

* Hệ thống bạch huyết ngoài vú

- Bạch huyết ở vùng da: Mạng bạch huyết từ phần da bao bọc của vú đổ

vào một thân rồi đi đến các hạch vùng nách cùng bên. ở vùng gần xương ức,

bạch huyết có thể đi ngang và kết thúc ở vú hoặc các hạch của vùng nách của

bên đối diện.

6

- Bạch huyết ở quầng vú: Dẫn đến bạch huyết núm vú và quầng vú đi qua

mạng lưới mạch Sappey dưới quầng vú. Mạng mạch này bao gồm:

+ Thân ngoài: Chạy dưới quầng vú đến bờ ngoài cơ ngực lớn, nhận thêm

bạch huyết của nửa trên vú.

+ Thân trong: Chạy từ đường giữa xương đòn rồi dưới quầng vú chạy

xuống dưới và sang bên để đến bờ ngoài cơ ngực lớn, nhận bạch huyết của nửa

dưới vú.

Hai thân này chạy vòng theo bờ ngoài cơ ngực lớn và nhập vào mạc đòn

ngực và rồi đổ vào hõm nách, chúng thành một thân chính đi ngang qua nhóm

tĩnh mạch nách [33], [dt116].

- Hệ thống bạch huyết vùng nách: Vào năm 1902 Cunéo vào Poirier đã

trình bày một cách cụ thể hệ thống bạch huyết nách. Năm 1932 Rouvière sử

dụng lại những nghiên cứu này và chia thành 5 nhóm hạch dựa theo cách lan

tràn tự nhiên của những tế bào ung thư vú[dt 145,146].

+ Nhóm hạch vú ngoài: (5 - 6 hạch) kèm theo các mạch máu cùng tên và

thần kinh của cơ răng trước (thần kinh ngực dài), gồm 2 nhóm nhỏ:

 Nhóm dưới ở đỉnh hố nách: Ngay bờ ngoài của cân cơ ngực bé

(mức I) ở đó có mạng nối giữa bó mạch ngực ngoài và bó mạch vai

dưới. Đó là những hạch đầu tiên bị xâm nhập bởi ung thư vú.

 Nhóm trên nằm ở sau cơ ngực bé (mức II) chuỗi hạch này bị cắt

ngang bởi thần kinh cơ răng trước.

+ Nhóm hạch vai: (2 - 10 hạch) nằm ở một phần của bó thần kinh mạch máu

vai sau (mức I), phía trước của cơ lưng rộng. Bó thần kinh mạch máu của cơ này

được giữ lại khi vét hạch. ở bờ ngoài hố nách người ta cũng bắt gặp nhánh trên thần

kinh liên sườn cánh tay.

+ Nhóm hạch trung tâm: (4 - 5 hạch) nhóm hạch giữa nằm dưới cân cơ

ngực bé (mức II), nhận bạch huyết từ nhiều mạch của nhóm mức I ở vùng giữa

nách và bị cắt ngang bởi thần kinh liên sườn cánh tay.

7

H×nh 1.2. HÖ thèng b¹ch huyÕt vïng n¸ch

(Nguån: Atlas gi¶i phÉu ng-êi, 1994, Frank. H. Netter, tr.187)

B¹ch huyÕt ®Õn c¸c h¹ch d-íi hoµnh vµ gan

B¹ch huyÕt ®Õn vó bªn ®èi diÖn

B¹ch huyÕt ®Õn c¸c

h¹ch trung thÊt tr-íc

C¸c h¹ch ngùc

(n¸ch trø¬c)

C¸c h¹ch d-íi vai

(n¸ch sau)

C¸c h¹ch c¸nh tay

(n¸ch ngoµi)

C¸c h¹ch n¸ch trung t©m

C¸c h¹ch gian ngùc (Rotter)

C¸c h¹ch d-íi ®ßn

(®Ønh n¸ch)

C¸c h¹ch c¹nh øc (vó trong)

8

+ Nhóm hạch đỉnh nách dưới đòn: (3 - 6 hạch) nằm phía trên và sau cơ

ngực bé (mức III), ở trước và dưới tĩnh mạch nách, nơi đó có quai ngực thần

kinh mạch máu của các cơ ngực đi qua.

Nhóm hạch này nhận mạch bạch huyết từ các nhóm hạch phía dưới và

cánh tay, đó là nhóm hạch cuối cùng có thể cắt bỏ được. Nó sẽ đổ vào các hạch

dưới đòn, là nhóm hạch "canh" trước khi đổ vào dòng hội lưu bạch huyết trong

vòng tuần hoàn chung. Trong những trường hợp hiếm hơn, nhóm dưới đòn này

có thể xem như nhóm trung tâm, nhận hồi lưu bạch huyết của vú một cách trực

tiếp nhờ các bó mạch xuyên từ cơ ngực đến nhóm hạch gian ngực Rotter (1 - 9

hạch).

+ Nhóm hạch tĩnh mạch nách: Nằm ở phía dưới (mức I) và phần sau của

gân cơ ngực bé (mức II) ở phía dưới và trước của mạch nách với một nhóm

ngoài luôn (2 - 3 hạch) đi đến mặt trong cánh tay phía trước tĩnh mạch nách có

một đệm bạch huyết quan trọng cần được bảo vệ khi vét hạch để tránh sự ứ đọng

bạch huyết ở cánh tay. Toàn bộ những hạch này sẽ đổ vào đỉnh nách (mức III)

[33], [dt73].

Møc I

Møc II

Møc III

H×nh 1.3: C¸c møc h¹ch di c¨n trong ung th- vó

(Nguån: §iÒu trÞ phÉu thuËt, ung th- vó, W.Donegan, 1996, tr. 456)

9

* Hệ thống bạch huyết trong vú

Hệ thống bạch huyết vú trong được trình bày lần đầu tiên bởi nhà giải phẫu học

Ecossai Curikshamk vào năm 1790 nhưng mãi đến năm 1918 mới được nghiên cứu

một cách chi tiết bởi Stibbe[dt146].

Một vài nhánh bạch huyết từ vú xuyên qua cơ ngực lớn và các cơ liên sườn

đi kèm với những nhánh xuyên của khoang gian sườn I, II, III, IV đến hạch vú

trong. Nhóm này nằm cách 1,5cm bờ bên xương ức dưới mạc nội ngực. Nó chạy

trong một đường hầm tam giác hợp bởi mặt sau trong màng phổi thành và trung

thất.

Số lượng hạch ở mỗi chuỗi vú trong rất thay đổi (1 - 10 trung bình là 4)

chúng nằm ở giữa khoang gian sườn và không nằm sau vòng cung sụn sườn.

Người ta thường tìm thấy chúng ở mức của khoang sườn 1 và 2 ít gặp hơn ở

mức khoang gian sườn 3 - 4. Chúng thường nhỏ 1 - 2mm đôi khi đơn giản chỉ là

những nút bạch huyết.

Chuỗi hạch vú trong sẽ trực tiếp dẫn vào nhóm hạch dưới đòn. Một vài

nhánh bạch huyết có thể sẽ tiếp nối lại với nhóm hạch dưới đòn (mức III) hoặc

nhóm hạch trung thất khi khoang gian sườn I bị xâm lấn, điều đó có thể giải

thích tiên lượng xấu khi có di căn hạch vú trong[33],[dt 63].

Có 2 đường bạch huyết phụ từ vú đến hạch ở đỉnh hõm nách.

+ Đường xuyên qua cơ ngực: Bắt đầu từ đám rối mặt sau vú trong mô quầng

vú lỏng lẻo giữa mạc ngực và vú xuyên qua cơ ngực lớn và theo nhánh của động

mạch cùng vai ngực, đổ vào nhóm hạch dưới đòn. Hạch bạch huyết của đường

xuyên qua cơ ngực này nằm giữa cơ ngực lớn và cơ ngực bé gọi là hạch Rotter.

+ Đường sau cơ ngực: Được tìm thấy khoảng 1/3 trường hợp và nhận bạch

huyết của 1/4 trên trong vú. Nó chạy vòng ra bờ ngoài và ngược lên trên theo mặt

sau của cơ ngực lớn hoặc mặt sau của cơ ngực bé và đổ vào đỉnh của hõm nách ở

nhóm hạch dưới đòn. Nhóm xuyên sau cơ ngực này là đường chính để đổ vào

hạch hạ đòn hơn là các đường của hạch bạch huyết chính ở nhóm vú ngoài và

10

nhóm trung tâm của hạch nách. Haagensen cho rằng điều này cho phép giải thích

tiên lượng xấu của ung thư vú ở 1/4 trên trong tuyến vú [33], [dt145].

1.1.2. Sinh lý của tuyến vú bình thƣờng

Vú là một cơ quan thụ cảm của các steroid buồng trứng trong máu cũng

như niêm mạc tử cung, vú phát triển tốt là kết quả của sự cân đối giữa estrogen

và progesteron.

Những thay đổi có tính chu kỳ về nồng độ hormon sinh dục trong chu kỳ

kinh nguyệt có ảnh hưởng rất lớn đến hình thái vú. Dưới ảnh hưởng của FSH và

LH trong pha nang noãn của chu kỳ kinh nguyệt, nồng độ estrogen tăng lên do

được tiết nhiều từ nang Graff sẽ kích thích biểu mô vú tăng sinh. Trong pha tăng

sinh này, biểu mô dài ra, tăng số lượng các phân bào, tăng tổng hợp RNA, tăng

tỉ trọng nhân, nở to các hạt nhân và những thay đổi các thành phần khác trong tế

bào. Đặc biệt, các thể golgi, ribosome, các ti lạp thể tăng cả về kích thước và số

lượng. Trong pha nang, ở thời điểm giữa chu kỳ, khi mà estrogen được tổng

hợp và tiết ra nhiều nhất thì sẽ xảy ra rụng trứng. Một đỉnh thứ hai xảy ra ở giữa

pha hoàng thể, khi tổng hợp progesteron ở hoàng thể đạt cực đại. Tương tự,

progesteron làm thay đổi biểu mô vú trong pha hoàng thể của chu kỳ rụng trứng.

Các ống tuyến vú giãn ra, các tế bào biểu mô nang sẽ biệt hóa thành các tế bào

tiết [9],[dt 38].

Những thay đổi biểu mô vú do các hormon là nhờ các thụ thể steroid trong

tế bào hoặc các thụ thể peptid gắn với màng tế bào. Người ta đã tìm thấy các thụ

thể của estrogen và progesteron trong dung dịch bào tương của biểu mô tuyến vú

bình thường. Thông qua sự gắn các hormon này vào các thụ thể đặc hiệu, sẽ có

sự thay đổi phân tử, dẫn đến những thay đổi về hình thái cũng như về sinh lý.

Tương tự, các thụ thể màng cũng có thể điều chỉnh tác dụng của prolactin. Nồng

độ estrogen nội sinh tăng có thể có tác dụng giống histamin trên vi tuần hoàn vú,

hậu quả là làm tăng tối đa dòng máu từ 3 - 4 ngày trước khi có kinh, với sự tăng

trung bình thể tích vú 15 - 30cm2. Cảm giác đầy tức vú trước khi có kinh là do

11

tăng phù khoang giữa các thùy và tăng sinh các ống nang dưới tác dụng của

estrogen và progesteron. Khi có kinh, có sự giảm đột ngột nồng độ hormon sinh

dục lưu hành và hoạt động của biểu mô cũng giảm xuống.

Sau khi hết kinh, phù nhu mô giảm xuống, sự xẹp biểu mô ngừng lại và bắt

đầu một chu kỳ mới với sự tăng nồng độ estrogen. Thể tích vú nhỏ nhất vào

ngày thứ 5 - 7 sau khi hết kinh. Những thay đổi tốc độ phát triển mô vú có tính

chất chu kỳ liên quan đến sự thay đổi hormon trong pha nang trứng và pha

hoàng thể của chu kỳ kinh nguyệt. Phần lớn các nghiên cứu cho thấy sự phát

triển các tế bào biểu mô tăng lên trong nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt (pha

hoàng thể). [9], [dt 39].

1.1.3. Cấu tạo hạch và chức năng sinh lý

Hạch là cơ quan bạch huyết nhỏ nằm chặn trên đường đi của các mạch bạch huyết.

1.1.3.1. Cấu tạo

Hạch hình trứng hoặc hình thận, đường kính 3 - 5mm, có vùng lõm là nơi

có mạch máu đi ra, vào hạch. Bạch huyết dẫn tới hạch bởi bạch huyết quản đến

và ra khỏi hạch bởi một hoặc hai bạch huyết quản đi xuất phát từ rốn hạch, có

van trong bạch huyết chỉ đi một chiều khi qua hạch.

1.1.3.2. Mô học

Hạch gồm mô liên kết bao bọc mô hạch huyết. Nghiên cứu sâu về cấu trúc

của hạch cho thấy trong mô bạch huyết chứa các đại thực bào, lympho bào, cho

phép các thành phần bạch huyết và các tế bào tự do qua lại giữa mô bạch huyết

và bạch huyết, tạo điều kiện thuận lợi cho đại thực bào trong hạch giữ lại và có

thể phá hủy các vi sinh vật khi các tế bào và các chất lạ nhằm làm sạch dòng

bạch huyết đi qua hạch. Ngoài ra trong nhu mô bạch huyết còn chứa một lượng

nhỏ tế bào có hạt, số lượng bạch cầu có thể tăng lên rất nhiều khi hạch bị kích

thích hay trong trạng thái bệnh lý của hạch.

1.1.3.3. Sinh lý

Các chất lạ và các tế bào có hại (tế bào u) của cơ thể và các thành phần

dạng hạt khác trong bạch huyết sẽ bị giữ lại, khi đi qua hạch. Trong điều kiện có

12

thể, hạch sẽ làm chúng trở nên vô hại. Vì vậy, bạch huyết khi đi qua hạch sẽ

được làm sạch mà vai trò của nó là do đại thực bào và các tế bào võng các xoang

bạch huyết đóng vai trò quyết định, tuy nhiên hạch bạch huyết là lá chắn rất ít

hiệu quả với tế bào ung thư [15], [26].

1.2. BỆNH SỬ TỰ NHIÊN CỦA UNG THƢ VÚ

1.2.1. Các quan niệm về ung thƣ vú và tình hình nghiên cứu hiện nay

Ung thư vú được mô tả đầu tiên bởi người Ai Cập 3000 năm trước công

nguyên. Phẫu thuật là phương pháp điều trị lâu đời nhất. Các biện pháp phẫu

thuật được đưa ra, mở rộng, rồi vứt bỏ, sử dụng lại, rồi thu gọn... có vẻ như bất

tận. Cho đến nay, việc điều trị ung thư vú đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau,

mỗi thời kỳ đặc trưng cho những quan niệm khác nhau [74].

1.2.1.1. Thời kỳ cổ đại

Người cổ Ai Cập không sử dụng phẫu thuật để điều trị ung thư vú.

Edwin Smith niên đại 3000 - 2500 trước công nguyên mô tả 8 trường hợp

u vú có loét, cứng, không nóng, không có dịch. Y văn mô tả một số bệnh nhân

được điều trị bằng cách đốt khối u với thanh sắt nung nóng đỏ. Người ấn Độ

niên đại 2000 trước công nguyên điều trị ung thư vú bằng phẫu thuật, đốt nóng

và sử dụng hợp chất Arsenic. Hypocrate (400-375 trước công nguyên) đã mô tả

ung thư vú khá rõ ràng. Theo kinh nghiệm của ông thì không nên điều trị vì nếu

điều trị bệnh nhân chết nhanh hơn, nếu không điều trị ,bệnh nhân có thể sống

được trong thời gian dài [74], [92].

1.2.1.2. Thời kỳ quan niệm ung thư vú là một bệnh toàn thân

Vào thế kỷ 2, Galen là một thầy thuốc nổi tiếng bấy giờ đã cho rằng ung

thư vú gây ra là do một loại thể dịch đặc biệt trong cơ thể. Chính Galen đã ví

khối ung thư như một con cua có tĩnh mạch lớn xâm lấn ra xung quanh như

những càng cua. Trong suốt thời kỳ này, thuyết mật đen gây ung thư vú của

Galen (Galen's black bile theory) đã thống trị cho đến khi có sự khám phá ra hệ

thống bạch huyết của Ascelli (1622) và Pacquet, Bastholiuss, Rudbeck (1651)

[74], [dt 150].

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!