Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

nghiên cứu tình hình nuôi dưỡng trẻ dưới 5 tuổi tại một quần thể dân cư sống trên thuyền ở phường
PREMIUM
Số trang
79
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1343

nghiên cứu tình hình nuôi dưỡng trẻ dưới 5 tuổi tại một quần thể dân cư sống trên thuyền ở phường

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Vấn đề dinh dưỡng trẻ em trong các cộng đồng người nghèo được xem

là vấn đề toàn cầu và được nhiều tổ chức quốc tế quan tâm, nghiên cứu để tìm

ra giải pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ.

Chăm lo cải thiện đời sống nhân dân là mối quan tâm hàng đầu của

Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua với sự hỗ trợ rất lớn của các cấp,

các ngành, đặc biệt là ngành Y tế, nhiều chương trình chăm sóc sức khoẻ và

dinh dưỡng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhờ đó, tình trạng dinh

dưỡng và sức khoẻ của nhân dân được nâng lên, có nhiều tiến bộ đáng kể, tỷ

lệ suy dinh dưỡng hàng năm trên toàn quốc có giảm [32].

Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách toàn diện và khách quan thì vấn đề

dinh dưỡng và sức khoẻ cộng đồng ở nước ta đang còn nhiều thách thức cần

được giải quyết. Thiếu dinh dưỡng protein - năng lượng, thiếu các vi chất ở

trẻ em dưới 5 tuổi vẫn đang là vấn đề sức khoẻ cộng đồng quan trọng và cấp

bách hiện nay. Theo số liệu điều tra năm 1990 của Tổ chức Y tế Thế giới ở trẻ

dưới 5 tuổi có 44% trẻ suy dinh dưỡng protein-năng lượng, 50% thiếu máu

[22] [30]. Viện Dinh dưỡng thông báo năm 1995: suy dinh dưỡng chiếm

44,9%, năm 1999 là 36,7%, năm 2000 là: 33,1 %. Tại Thừa Thiên Huế năm

2000 là 34,4%, 2001 : 32%. Một kết quả điều tra khác ở một xã nghèo (Bùi

Đăng) tỉnh Bình Phước năm 2000: tỷ lệ suy dinh dưỡng là 36,6%, thiếu máu ở

trẻ em dưới 5 tuổi là 62,9% [55].

Tình trạng dinh dưỡng của một cá thể, của một quần thể không chỉ do

ăn uống, mà nó còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, như sự thiếu

kiến thức nuôi con của bà mẹ, bệnh tật, cân nặng lúc sinh.... Mà các yếu tố

này luôn thay đổi theo thời gian và không gian vì vậy việc đánh giá, giám sát

tình trạng dinh dưỡng là cần thiết. Điều này không chỉ do mục tiêu hạ thấp tỷ

2

lệ suy dinh dưỡng trẻ em mà còn có ý nghĩa đánh giá kết quả tổng hợp sự phát

triển của mỗi cộng đồng.

Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người cần phải

có sức khoẻ để đáp ứng nhu cầu của xã hội, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước. Hơn ai hết, trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước, cơ thể

trẻ phát triển nhanh về thể chất và tinh thần, do đó nhu cầu các chất dinh

dưỡng đòi hỏi rất lớn, trẻ vô cùng nhạy cảm với sự thiếu hụt các chất dinh

dưỡng đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi [44].

Trong điều kiện một nền kinh tế kém phát triển, thiếu lương thực - thực

phẩm (LTTP), hoàn cảnh môi trường kém, phần lớn các bà mẹ thiếu kiến thức

nuôi con. Trẻ em sẽ là đối tượng đầu tiên chịu tác động của tình trạng đó mà

hậu quả của nó là suy dinh dưỡng [10].

Để góp phần tìm hiểu tình hình dinh dưỡng, nâng cao sức khỏe của trẻ

em tại các cộng đồng dân nghèo ở Huế, góp phần thực hiện mục tiêu chiến

lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001- 2010, chúng tôi thực hiện đề tài:

“Nghiên cứu tình hình nuôi dƣỡng trẻ dƣới 5 tuổi tại một quần thể dân

cƣ sống trên thuyền ở phƣờng Phú Bình Thành phố Huế” với các mục

tiêu:

(1) Đánh giá tình hình dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi;

(2) Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình suy dinh dưỡng của

trẻ sinh sống trong một quần thể dân cư sống trên thuyền.

3

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. VÀI NÉT SƠ LƢỢC VỀ LỊCH SỬ DINH DƢỠNG HỌC

1.1.1. Điều trị và phòng bệnh về dinh dƣỡng bằng chế độ ăn

Trong y học từ thời kỳ xa xưa người ta đã biết mối liên quan giữa thực

phẩm và sức khoẻ. Năm 1600 Cartier người Pháp đã biết điều trị bệnh

Scorbut bằng cách dùng nước sắc lá thông, mà ngày nay người ta biết nó chứa

nhiều Vitamin C. Hypocrate, ông tổ của ngành y đã rất quan tâm đến vấn đề

điều trị bằng ăn uống. Ông cho rằng: "Thức ăn cho bệnh nhân phải là một

phương tiện điều trị và trong phương tiện điều trị của chúng ta phải cóì các

chất dinh dưỡng". [ 22 ].

Từ cuối thế kỷ XII đến cuối thế kỷ XIII, vấn đề ăn điều trị ngày càng

được các nhà y học chú ý. Sidengai người Anh có thể coi là người kế thừa

những di chúc của Hypocrate, đã vạch ra là: "Để nhằm mục đích phòng bệnh

cùng như điều trị trong nhiều bệnh chỉ cần cho ăn những chế độ ăn kiêng

thích hợp và sống một đời sống có tổ chức hợp lý". Sidengai chống lại sự mê

tín thuốc men và yêu cầu phải: "Lấy bếp thay thế phòng bào chế".

Năm trăm năm trước đây Tuệ Tĩnh đã cho rằng: "Thức ăn là thuốc,

thuốc là thức ăn" và ông đã viết bộ Nam dược thần hiệu trong đó có rất nhiều

vị thuốc là thức ăn. Tuệ Tĩnh là người đặt nền móng có thể coi là rất sớm

trong việc trị bệnh bằng ăn uống ở nước ta. Ngoài những vấn đề bổ dưỡng

chung trong các đơn thuốc, như một nhà dinh dưỡng hiện đại, Tuệ Tĩnh còn

liệt kê các món ăn để chữa bệnh cụ thể các chứng bệnh như cảm, bị ho, lao, ỉa

chảy, lỵ, phù, đau lưng.... Tuệ Tĩnh đã chỉ định dùng gan gà, gan lợn, cá, đậu

4

xị, hành để điều trị chứng bệnh mờ mắt. Hiện nay chúng ta biết đó là bệnh

khô mắt do thiếu vitamin A.

Lê Hữu Trác (1720 - 1790) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, được coi là

một trong những nhà bác học uyên thâm, là nhà y học có học vấn sâu rộng về

mặt dinh dưỡng, Hải Thượng Lãn Ông đã xác định được rõ tầm quan trọng

của vấn đề ăn uống so với thuốc. Theo ông "có thuốc mà không có ăn uống

thì cũng đi đến chỗ chết". Do thấy rõ được vai trò ăn uống nên ông rất chú ý

tới việc chế biến thức ăn. Trong chế biến thực phẩm, ông cũng chú ý hướng

dẫn cách sử dụng thức ăn thông thường, rẻ tiền nhưng hiệu quả dinh dưỡng

cao như quả khế, quả sấu, các loại đậu ..., ngoài ra Hải Thượng Lãn Ông còn

đặc biệt chú ý tới vấn đề dinh dưỡng thực phẩm. Theo ông, thức ăn phải là

chất bổ dưỡng cho cơ thể chứ không được là nguồn gây bệnh.

Trong vài thập kỷ gần đây, các yếu tố dinh dưỡng đã được xem xét và

nghiên cứu rất nhiều và mặc dù còn nhiều điều chưa được sáng tỏ, nhưng các

chuyên gia y tế cũng đã rút ra được nhiều khuyến nghị quan trọng về chế độ

ăn uống để phòng và chữa bệnh mãn tính [5].

Một tiểu ban dinh dưỡng của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức

Lương nông Thế giới (FAO) đã đề nghị phân loại các bệnh thuộc dinh dưỡng

như sau:

- Bệnh do thiếu dinh dưỡng gồm thiếu protein-năng lượng, thiếu chất

khoáng, thiếu vitamin A, B, C.

- Bệnh thừa dinh dưỡng gồm: béo phì, bệnh thừa vitamin A, B, C.

Như vậy, cách thức dinh dưỡng và tình trạng sức khoẻ có liên quan mật

thiết với nhau. Cả thiếu ăn lẫn thừa ăn nên hiểu là thừa về số lượng và thiếu

về chất lượng đều có thể gây bệnh. Một chế độ ăn uống cân đối, hợp lý là cần

thiết để con người sống khỏe mạnh và lâu.

5

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu suy dinh dƣỡng

Suy dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý do nhu cầu dinh dưỡng bình

thường của cơ thể không được đáp ứng đầy đủ [16]. Hay nói cách khác suy

dinh dưỡng là hậu quả của tình trạng thiếu ăn. Thiếu ăn ảnh hưởng trước tiên

đến các đối tượng có nguy cơ cao nhất đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi. Sức

khoẻ của trẻ em gắn liền với tình trạng dinh dưỡng.

Trong lịch sử y học đã có rất nhiều tên đặt ra để chỉ tình trạng suy dinh

dưỡng protein-năng lượng ở trẻ em. Năm 1908 Cotrea gọi suy dinh dưỡng là

bệnh "rắn nhỏ" vì trẻ em mắc bệnh có thể nhỏ bé, dự án có lằn sẫm lẫn nâu

nhạt như dự án rắn. Năm 1927 tác giả Keller gọi là bệnh suy thái của trẻ ăn

bột. Năm 1926 Normet bác sỹ người Pháp đã mô tả bệnh sưng phù Annam

gặp nhiều ở Trung Nam bộ Việt Nam. Các tác giả Autret và Behar gọi suy

dinh dưỡng là hội chứng đa khiếm khuyết ở trẻ em, vì thấy rằng đứa trẻ bị

thiếu nhiều chất dinh dưỡng [10] [64]. Cho đến đầu năm 1930 nữ bác sỹ

Cicely Williams đã gặp nhiều trẻ suy dinh dưỡng ở vùng Châu Phi, đã dùng

thuật ngữ "Kwashiokor" [54] theo ngôn ngữ của người địa phương (Ghana)

có nghĩa là "Bệnh của đứa trẻ bị tách mẹ sớm" và đến nay vẫn được dùng

trong y văn.

Vào năm 1959, một số tác giả dùng danh từ "suy dinh dưỡng protein￾calo" để chỉ những đứa trẻ vừa đói protein, vừa đói năng lượng. Năm 1962

trong bản phúc trình tại khóa họp thứ sáu, tiểu ban dinh dưỡng FAO/WHO đã

chọn danh từ "suy dinh dưỡng protein calo". Năm 1966, Jellife đã đề nghị tên

gọi: "Suy dinh dưỡng protein-năng lượng (protein-energy-malnutrition) để chỉ

tình trạng thiếu dinh dưỡng protein-năng lượng ở mức độ nặng hơn, vì mối

liên quan giữa thể phù và thể đét. Từ đó suy dinh dưỡng protein-năng lượng

(PEM) thay thế các thuật ngữ trước" [7].

6

1.2. TÌNH HÌNH DINH DƢỠNG TRẺ EM DƢỚI 5 TUỔI VÀ CÁC YẾU

TỐ ẢNH HƢỞNG

1.2.1.Tình hình dinh dƣỡng của trẻ em dƣới 5 tuổi

1.2.1.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi

Tình trạng dinh dưỡng của các cá thể là kết quả ăn uống và sử dụng các

chất dinh dưỡng của cơ thể. Tình trạng dinh dưỡng tốt phản ảnh sự cân bằng

giữa thức ăn ăn vào và tình trạng sức khoẻ. Khi cơ thể có tình trạng dinh dưỡng

không tốt (thiếu hoặc thừa dinh dưỡng) là thể hiện vấn đề sức khoẻ dinh dưỡng

hoặc cả hai. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi được coi là đại diện

cho tình hình dinh dưỡng và thực phẩm của toàn bộ cộng đồng [3].

Cơ thể trẻ em là cơ thể đang lớn, trẻ tăng nhanh cả cân nặng và chiều

cao. Trong năm đầu tiên, khi trẻ được 12 tháng cân nặng tăng gấp 3 lúc đẻ

(9,5 kg) chiều cao tăng gấp rưỡi lúc đẻ (75cm). Sang năm thứ hai trở đi, mỗi

năm cân nặng tăng trung bình 1,5kg chiều cao tăng trung bình 5cm [3]. Do đó

nhu cầu dinh dưỡng đòi hỏi cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Nếu thiếu ăn,

nhu cầu dinh dưỡng không thỏa mãn, sẽ dẫn đến tình trạng dinh dưỡng kém.

Sau đây là bảng nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng cho từng lứa tuổi

(<5 tuổi).

Bảng 1.1. Nhu cầu năng lƣợng và các chất dinh dƣỡng [6]

Lứa tuổi

(năm)

Năng

lƣợng

Kcal

Khoáng chất Vitamin

Protei

n (g)

Ca

(mg)

Sắt

(mg)

A

(mcg)

D

(UI)

B1

(mg)

B2

(mg)

PP

(mg)

C

(mg)

<1 tuổi

3-6 tháng

6-12 tháng

620

820

21

23

300

500

10

11

325

350

10,0

10,0

0,3

0,4

0,3

0,5

5

5,4

30

30

2-3 tuổi 1300 28 500 6 400 10,0 0,8 0,8 9,0 35

4-6 tuổi 1600 36 500 7 400 10,0 1,1 1,1 12,1 45

7

Ghi chú :

1. Protein : tính theo khẩu phần có hệ số sử dụng protein = 60.

2. Vitamin A : tính theo đơn vị Retinol.

1.2.1.2. Diễn biến tình hình suy dinh dưỡng trẻ em hiện nay

* Trên thế giới

Theo ước tính mới đây của Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ suy dinh dưỡng

trẻ em có xu hướng giảm đi [4]. Mức giảm suy dinh dưỡng có sự khác nhau

giữa các khu vực trên thế giới. Mức giảm suy dinh dưỡng ở Châu Á mạnh

hơn so với các vùng khác trên thế giới và có ý nghĩa quan trọng, vì Châu Á có

tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cao nhất cùng với số lượng dân số tập trung đông

nhất [8].

Bảng 1.2. Tỷ lệ trẻ SDD (0 - 60 tháng) theo vùng 1985 - 1995

Vùng

Tỷ lệ SDD (cân nặng/tuổi) Mức tăng giảm hàng năm

(%)

1985 1990 1985 1985-1990 1990 - 1995

Cận sa mạc châu

Phi 25,8 28,0 27,2 0,44 -0,16

Nam Á 55,3 50,1 48,8 -1,04 -0,26

Đông Nam Á 39,8 34,2 32,4 -1,12 -0,36

Trung Quốc 22,7 17,8 15,0 -0,98 -0,56

Nam Mỹ 9,8 8,9 8,4 -0,18 -0,1

Chung 34,3 30,7 29,3 - 0,72 - 0,28

Tại các nước đang phát triển hàng năm có trên 500 triệu trẻ em bị suy

dinh dưỡng và khoảng 10 triệu trẻ em tử vong [33].

Theo UNICEF, năm 1999 ở một số quốc gia trên thế giới tỷ lệ trẻ em

còi cọc có sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Tỷ lệ giữa nông thôn và

thành thị : Trung Quốc (4,3); Kadaxtan (2,8);péru (2,5); Nam Phi (1,7); Việt

Nam (3,1).[41]

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!