Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy học giảng dạy bài ôn tập – tổng kết phần các nguyên tố kim loại nhằm nâng cao chất lượng bài lên lớp ở trường trung học phổ thông.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA HÓA
----------
LƯƠNG THỊ MINH THÚY
Nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy học
giảng dạy bài ôn tập – tổng kết phần các
nguyên tố kim loại nhằm nâng cao chất lượng
bài lên lớp ở trường trung học phổ thông
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM HÓA
2
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Để tiến kịp và hòa nhập với nền giáo dục trên thế giới trong thời kỳ hội nhập
quốc tế, đồng thời phục vụ nền kinh tế đất nước trong cơ chế thị trường và mở cửa
từ nhiều năm nay, cả nước đang thực hiện cuộc đổi mới nền giáo dục nước nhà trên
các lĩnh vực: “xác định mục tiêu, thiết kế lại chương trình, nội dung, phương pháp
giáo dục – đào tạo”. Thông qua đó nhằm tạo ra những con người thích ứng với nền
kinh tế thị trường cạnh tranh và hợp tác, có năng lực giải quyết được những vấn đề
thường gặp, tự tìm việc làm và có những đóng góp có ích cho đất nước.
Các Nghị quyết hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã nhấn
mạnh và chỉ rõ về đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) bằng cách áp dụng những
phương pháp giảng dạy hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh (HS) những năng lực tư
duy sáng tạo.
Những phương hướng trên đây đặt ra cho nhà trường nhiệm vụ phải giải đáp,
ngoài câu hỏi “phải dạy cái gì và học cái gì” còn câu hỏi “dạy và học theo cách
nào?” để phát triển học sinh thành những nhà chuyên môn cho tương lai.
Trong nhiều năm qua, nền giáo dục phổ thông đã có những đóng góp đáng
kể cho đất nước. Bước đầu đã hình thành trong giáo viên (GV) cải tiến phương pháp
giảng dạy. Tuy vậy, vẫn còn nhiều tồn tại trong việc sử dụng các phương pháp dạy
học, về cơ bản chưa có một cuộc cách mạng về phương pháp. Từ đó tạo ra những
HS không biết vận dụng linh hoạt kiến thức đề giải quyết những vấn đề có liên quan
đến học tập và thực tiễn.
Để đáp ứng mục tiêu giáo dục đã nêu ra, dạy học bằng các phương pháp tích
cực là một trong những giải pháp tốt để nâng cao hiệu quả dạy học theo hướng hoạt
động hóa nhận thức nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và khả
năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống
khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; đồng thời tác động đến tình cảm, thái độ
3
đem lại niềm vui để tư duy phát triển, hứng thú học tập và hình thành nhân cách cho
học sinh. Nên việc giảng dạy bài ôn tập – tổng kết ở trường phổ thông cũng không
nằm ngoài mục đích đó. Vì vậy việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy hoá học ở trường trung học phổ thông là rất cần thiết.
Với những lý do trên đây, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học và
thực hiện được mục tiêu đào tạo của nhà trường trung học phổ thông. Tôi đã chọn
đề tài: “Nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy học giảng dạy bài ôn tập – tổng
kết phần các nguyên tố kim loại nhằm nâng cao chất lượng bài lên lớp ở
trường trung học phổ thông”. Đề tài chắc chắn sẽ giúp tôi phát triển được chuyên
môn và phương pháp nghiên cứu trong hoạt động dạy học của mình trong tương lai.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Sử dụng có hệ thống các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy bài ôn
tập – tổng kết phần các nguyên tố kim loại lớp 12 nhằm nâng cao hiệu quả bài lên
lớp theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức và hứng thú học tập của học sinh.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Để đạt được mục tiêu trên, chúng tôi phải hoàn thành những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến lý luận và thực tiễn của việc nâng
cao chất lượng bài lên lớp.
- Tìm hiểu thực trạng dạy và học hóa học hiện nay ở các trường THPT ở
thành phố Đà Nẵng và Tỉnh Quảng Nam, tình trạng sử dụng các phương pháp tích
cực trong các bài hóa học nói chung và bài ôn tập – tổng kết nói riêng, từ đó đưa ra
những biện pháp dạy học để nâng cao chất lượng bài lên lớp.
- Xây dựng các bài giảng ôn tập – tổng kết phần nguyên tố kim loại lớp 12 ở
trường THPT (nâng cao) có sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát
huy tính tích cực và hứng thú trong học tập và thực tiễn cho học sinh.
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của việc áp dụng phương pháp
dạy học này.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành các nhiệm vụ đã đặt ra, tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
4
1/ Phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài.
2/ Nghiên cứu các giáo trình và tài liệu giáo khoa hóa học, sách giáo viên,
sách bài tập và các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.
3/ Điều tra cơ bản: Phỏng vấn, dự giờ.
4/ Lấy ý kiến chuyên gia.
5/ Thực nghiệm sư phạm.
6/ Dùng toán học thống kê để xử lý các kết quả thực nghiệm.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
1/ Lần đầu tiên áp dụng một số PPDH tích cực vào các bài giảng ôn tập –
tổng kết phần nguyên tố kim loại lớp 12 ở trường THPT.
2/ Đề xuất các biện pháp soạn kiểu bài ôn tập – tổng kết theo hướng nâng
cao chất lượng bài lên lớp về phần nguyên tố kim loại lớp 12 trong chương trình
phổ thông.
5
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BÀI LÊN LỚP
1.1. Bài lên lớp hóa học [5]
1.1.1. Các hình thức tổ chức dạy học ở nhà trường
1. Hệ dạy học cá nhân:
Là hình thức tổ chức dạy học dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên, mỗi
học sinh độc lập thực hiện những nhiệm vụ học tập của mình theo nhịp độ riêng để
đạt đến mục tiêu dạy học chung.
2. Hệ dạy học lớp – bài:
Hình thức dạy học mà với hình thức đó trong suốt thời gian học tập được quy
định một cách chính xác và ở một địa điểm riêng biệt, giáo viên chỉ đạo hoạt động
nhận thức có tính chất tập thể ổn định, có thành phần không đổi, đồng thời chú ý
đến đặc điểm của từng học sinh để sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy
học nhất định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh nắm vững tài liệu học tập
một cách trực tiếp cũng như phát triển năng lực nhận thức và giáo dục tại lớp.
3. Hệ diễn giảng – xemina:
Là một trong những hình thức tổ chức dạy học dưới sự điều khiển trực tiếp
của giáo viên, học sinh trình bày, thảo luận, tranh luận về những vấn đề khoa học
nhất định.
4. Ba hình thức tổ chức dạy học cơ bản trong hệ lớp – bài ở trường
trung học:
- Dạy học trên lớp.
- Dạy học lao động kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp.
- Hoạt động ngoài lớp, ngoài trường.
Ba dạng trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên một hệ thống toàn vẹn các
hình thức tổ chức dạy học ở trường trung học. Chúng thâm nhập vào nhau, bổ sung
cho nhau để thực hiện mục tiêu đào tạo toàn diện của nhà trường trung học.
1.1.2. Bài lên lớp
6
1. Nội dung của khái niệm:
Định nghĩa 1: Bài lên lớp là hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở trường phổ
thông. Nó là một quá trình dạy học sơ đẳng trọn vẹn. Bài lên lớp có thời lượng xác
định, sĩ số giới hạn, tập hợp thành lớp những học sinh cùng độ tuổi, cùng trình độ
học lực dưới sự điều khiển của giáo viên, học sinh trực tiếp lĩnh hội trọn vẹn nội
dung trí dục của môn học.
Định nghĩa 2: Bài lên lớp là hình thức tổ chức mà trong đó giáo viên trong
một khoảng thời gian xác định hướng dẫn hoạt động nhận thức cho một tập thể học
sinh cố định, cùng độ tuổi có chú ý đến từng đặc điểm học sinh trong lớp, sử dụng
phương tiện và phương pháp dạy học để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho tất cả học
sinh nắm được kiến thức, kỹ năng, giáo dục đạo đức và phát huy khả năng nhận
thức của họ.
2. Algorit để nghiên cứu bài lên lớp theo tiếp cận hệ thống
Theo lý luận dạy học hiện đại, bài lên lớp là đơn vị cấu trúc nguyên tố cơ bản
và trọn vẹn của quá trình dạy học, hạn chế về mặt thời gian. Bài lên lớp là một hệ
toàn vẹn. Đây là quan điểm cơ bản để hiểu kỹ về bài lên lớp theo “Tiếp cận hệ
thống”. Tiếp cận hệ thống là một bộ phận của triết học duy vật biện chứng. Tiếp cận
hệ thống là sự khái quát hóa cao của những phương pháp hiện đại xuất xứ từ lý
thuyết hệ của Xibecnêtic. Tiếp cận hệ thống là cách thức xem xét đối tượng như
một hệ toàn vẹn phát triển động trong quá trình tự sinh thành và lớn lên của nó
thông qua việc giải quyết những mâu thuẫn bên trong, những mối liên hệ và tác
động phức tạp qua lại bên trong giữa các thành tố tạo nên hệ qua đó mà phát hiện ra
được bản chất tích hợp, tính toàn vẹn và logic phát triển nội tại của đối tượng coi
như một hệ toàn vẹn. Như vậy tiếp cận hệ thống đòi hỏi phải phân tích bài lên lớp
theo logic sau đây:
- Tìm hiểu cấu trúc và chức năng của tất cả các thành tố của bài lên lớp.
- Phát hiện ra tất cả các tương tác qua lại giữa các thành tố với nhau trong bài
lên lớp, thấy được logic sinh thành và phát triển của bài lên lớp, dựng được sơ đồ
grap cấu trúc của bài lên lớp. Xác định bài lên lớp là một hệ toàn vẹn.
7
- Bài lên lớp là hệ toàn vẹn nên có tính tích hợp (hay tính toàn vẹn) là thuộc
tính cơ bản và những thuộc tính nổi bật khác mà hệ toàn vẹn có.
3. Bốn thành tố cơ bản của bài lên lớp
a. Mục đích của bài lên lớp:
Đây là yếu tố xuất phát của bài lên lớp, nó xác định con đường sẽ đi, mức độ
kiến thức, kĩ năng sẽ đạt tới. Mục tiêu bài lên lớp bao gồm 3 mục tiêu thành phần:
trí dục, phát triển và giáo dục.
- Mục tiêu trí dục: làm cho học sinh nắm vững những cơ sở khoa học, kĩ
năng, kĩ xảo của bài học một cách tự giác, tích cực và tự lực.
- Mục tiêu phát triển: trên cơ sở của việc lĩnh hội nội dung khoa học của bài
học, giúp học sinh phát triển những năng lực nhận thức và năng lực hành động.
- Mục tiêu giáo dục: hình thành thế giới quan đạo đức và hành vi văn minh
trên cơ sở bài học.
Có thể nói mục đích là mô hình tư duy của kết quả dự kiến. Do đó trong
trường hợp lí tưởng ta coi như đồng nhất kết quả bài học với mục tiêu của nó.
b. Nội dung dạy học của bài lên lớp:
Mục tiêu dạy học quyết định nội dung của bài học: nội dung dạy học của bài
lên lớp là tài liệu sách giáo khoa qui định trong bài học có thể bao gồm 4 kiểu nội
dung bộ phận sau:
- Kiến thức lí thuyết về thế giới.
- Kĩ năng, kĩ xảo hành động cụ thể.
- Các kinh nghiệm hoạt động sáng tạo cần truyền lại.
- Những qui phạm về đạo đức để hình thành nhân cách, thế giới quan duy vật
biện chứng cho học sinh.
c. Phương pháp dạy học của bài lên lớp:
Mục tiêu, nội dung quyết định lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp
của bài lên lớp. Ngoài ra phương pháp dạy học phụ thuộc vào trình độ, trạng thái
tâm lí của đối tượng lĩnh hội. Ở đây khái niệm phương pháp dạy học được hiểu theo
nghĩa rộng, nó bao gồm:
8
- Hành động dạy của thầy và hành động học của trò trong sự phối hợp thống
nhất với nhau.
- Phương tiện dạy học được sử dụng trong bài học đó.
- Hình thức tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh ở bài học đó. Thông
thường có 3 kiểu tổ chức hoạt động nhận thức trong bài lên lớp:
+ Trình độ học sinh trong lớp đồng đều. Giáo viên giao cho cả lớp cùng một
nhiệm vụ học tập.
+ Trong lớp có 3 trình độ học sinh (khá, trung bình, yếu), GV có thể biên
soạn những nhiệm vụ học tập phân hoá rồi giao cho mỗi học sinh một nhiệm vụ vừa
sức.
+ Cả lớp phải giải quyết một nhiệm vụ phức tạp thì giáo viên có thể phân
chia nhiệm vụ chung đó thành một số nhiệm vụ nhỏ gọi là nhiệm vụ thành phần, lớp
được chia thành một số nhóm ứng với số lượng nhiệm vụ thành phần.
d. Kết quả của bài lên lớp:
Bài lên lớp là một hệ toàn vẹn. Bốn thành tố M – N – P – K có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau.
- Mục tiêu của bài lên lớp chi phối nội dung tài liệu giáo khoa cần lựa chọn,
ngược lại nội dung có ảnh hưởng làm điều chỉnh mục tiêu của bài lên lớp.
- Mục tiêu và nội dung của bài lên lớp quyết định phương pháp dạy học của
bài lên lớp và hình thức tổ chức sự hoạt động của giáo viên và học sinh trong giờ
học.
4. Mối liên hệ có tính quy luật giữa 4 thành tố mục đích (M), nội dung
(N), phương pháp (P), kết quả (K) của bài lên lớp
a. Bài lên lớp là một hệ toàn vẹn:
Theo lí luận dạy học hiện đại, bài lên lớp của bất kì môn học nào hay loại
nào cũng đều gồm có 4 thành tố cơ bản là:
- Mục tiêu của bài lên lớp (M).
- Nội dung dạy học của bài lên lớp (N).
- Phương pháp dạy học của bài lên lớp (P).
- Kết quả tích hợp của bài lên lớp (K).
9
Các thành tố của bài lên lớp gắn bó chặt chẽ với nhau, qui định lẫn nhau làm
cho bài học là một hệ toàn vẹn.
b. Bài lên lớp là một hệ toàn vẹn nên có tính tích hợp (hay tính toàn vẹn) là
thuộc tính cơ bản chủ yếu và những thuộc tính nổi bật khác mà hệ toàn vẹn có:
- Tính tích hợp của hệ toàn vẹn là chất lượng mới của hệ được sinh ra từ sự
tương tác theo qui luật của các thành tố tạo nên hệ chính là sự phối hợp đầy tài năng
của thầy cô giáo đối với bốn thành tố là M - N – P – K.
- Trong hệ toàn vẹn, mối liên hệ giữa các thành tố là chặt chẽ, sự thay đổi
của một thành tố sẽ dẫn tới sự thay đổi của các thành tố khác của hệ, có khi của cả
hệ. Thật vậy, nếu M của bài lên lớp thay đổi thì kéo theo sự thay đổi lần lượt của N,
P, K.
- Hệ toàn vẹn có mối liên hệ bên trong giữa các thành tố trội hơn sự vận
động ly khai của chúng và trội hơn cả sự phá hủy từ bên ngoài vào hệ. Ở đây cần
lưu ý M là thành tố có ý nghĩa rất đặc biệt: M có ý nghĩa xuất phát vạch ra hướng
đi, M cũng có ý nghĩa là trung tâm tập hợp liên kết các thành tố khác. Vậy chừng
nào N, P, K vẫn còn liên kết với trung tâm M thì bài lên lớp vẫn tồn tại. Ví dụ: một
bài lên lớp có ba thí nghiệm thì làm có kết quả hai thí nghiệm còn một thí nghiệm
thất bại, yếu tố ly khai ở đây là sự thất bại của một thí nghiệm không đủ để phá vỡ
lòng tin của các em học sinh vào hai thí nghiệm đã thành công và những yếu tố
thành công khác của bài lên lớp, tuy vậy kết quả của bài lên lớp ít nhiều bị ảnh
hưởng.
- Sự tương tác giữa các thành tố của hệ sẽ làm hình thành ở hệ chất lượng
mới. Chính chất lượng mới này của hệ toàn vẹn lại tác động ngược trở lại đến từng
thành tố một và làm cải biến tính chất của mỗi thành tố: một số tính chất ban đầu
biến mất đi, một số khác bị biến đổi, một số mới xuất hiện. Điều này thấy rất rõ
trong những buổi góp ý khi dự giờ một tiết thao giảng thành công của một thầy giáo
dạy giỏi. Ta thường nghe thấy những câu phát biểu sau: bài hôm nay dạy rất hay
nhưng kết quả sẽ mỹ mãn nếu như thứ tự kiến thức trong phần nội dung sắp xếp lại
thế này hoặc kết quả sẽ hay hơn nếu thí nghiệm minh họa được thay bằng cách nêu
vấn đề cho HS tập đặt giả thuyết để giải thích rồi dùng thí nghiệm để chứng minh.
10
Như vậy sau buổi góp ý chắc chắn giáo án sẽ được soạn lại với chất lượng được
nâng cao hơn nữa với một số thay đổi ở nội dung và phương pháp.
- Chất lượng chung của hệ toàn vẹn có năng lực cải biến tính chất riêng của
mỗi thành tố của hệ đến mức có thể làm xuất hiện thành tố mới chưa hề có trước đó.
Sự xuất hiện của thành tố mới này cũng là kết quả của sự tương tác giữa các thành
tố ban đầu của hệ tạo ra. Rất dễ dàng nhận ra khi thầy cô giữ vai trò chủ đạo trong
tiết giảng, đặt HS vào đúng vị trí chủ thể của quá trình nhận thức, dùng phương
pháp dạy học tích cực để tạo điều kiện cho các em tự lực tiếp thu kiến thức, có đủ
thí nghiệm và thiết bị dạy học khác để các em say mê hiểu sâu vận dụng tốt thì
đương nhiên xuất hiện thành tố thứ năm của bài lên lớp đó là hiệu ứng cộng hưởng
về tổ chức tạo nên sức mạnh tổng hợp của thầy và trò cùng hướng đến mục đích
chung làm cho chất lượng bài lên lớp lại càng được nâng cao hơn nữa.
- Đối với hệ toàn vẹn, tính tích hợp là phẩm chất cơ bản chủ yếu, nhưng
đồng thời nó vẫn giữ được tính cộng định hướng. Thật vậy, thầy cô có thể nói, ví dụ
trong bài thao giảng hôm trước tôi đã dùng hai thí nghiệm và bốn phương pháp dạy
học chính. Nếu không có tài năng của thầy cô phối hợp nhuần nhuyễn các thí
nghiệm với phương pháp dạy học thì bài lên lớp chỉ có kết quả tầm thường bởi vì ở
trạng thái này bài lên lớp không phải là hệ toàn vẹn mà chỉ là một hệ cộng bình
thường.
5. Bài lên lớp là hệ thống các bước lý luận dạy học (gọi tắt là bước dạy
học)
a. Bước dạy học:
Thông thường và đầy đủ có 5 bước:
Bước 1: Ổn định lớp: điểm diện, thăm hỏi sơ qua tình hình lớp về sự chuẩn
bị cho bài học.
Bước 2: Kiểm tra bài cũ.
Bước 3: Giảng bài mới.
Bước 4: Củng cố.
Bước 5: Hướng dẫn học bài ở nhà và ra bài tập.
b. Tình huống dạy học:
11
Là tình huống xảy ra giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh
xuất hiện bất ngờ trong quá trình giáo viên đang truyền thụ kiến thức cho học sinh
trên lớp, buộc giáo viên phải giải quyết vấn đề để đảm bảo tiến độ dạy học.
c. Thao tác dạy học:
Các thao tác dạy học:
- Phân tích.
- Tổng hợp.
- So sánh.
- Khái quát hóa.
d. Mối quan hệ giữa các bước dạy học trong bài lên lớp:
Bài lên lớp được chia thành nhiều bước, mỗi bước thực hiện một mục đích
nhận thức nhất định của quá trình dạy học. Các bước hợp thành gắn bó chặt chẽ với
nhau, bước trước đặt ra vấn đề cho bước sau giải quyết, bước sau là hệ quả tất yếu
của bước trước.
1.2. Nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học hóa học
1.2.1. Về phía học sinh
- Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trong học tập.
- Kích thích ở học sinh nhu cầu giải quyết vấn đề nảy sinh, lôi cuốn các em
vào hoạt động nhận thức tự lực nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo và hình
thành cho các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội thông tin khoa học mới.
Nâng cao tính ham hiểu biết và tò mò trong quá trình thông hiểu các vấn đề nghiên
cứu.
- Góp phần rèn luyện tư duy phân tích, tập cho các em nhìn thấy bản chất của
các đối tượng ẩn sau các hình thức và những biểu hiện bề ngoài. [2]
1.2.2. Về phía thầy cô
- Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong
những yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo. Con người trong đó người nhà giáo được xem là nhân tố quan trọng
trong đổi mới giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu tất yếu của giáo
viên, bởi vì đổi mới là sự cải tiến, nâng cao chất lượng phương pháp dạy học; là sự
12
bổ sung, phối hợp nhiều phương pháp dạy học để khắc phục mặt hạn chế và phát
huy mặt ưu việt của mỗi phương pháp để góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả
của việc dạy học bộ môn hóa học.
1.2.3. Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XI phần
nói về giáo dục và đào tạo
- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội
Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng:
+ Về thành tựu: Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân
sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động
các nguồn lực xã hội cho giáo dục đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu,
vùng xa được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010
tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
+ Về hạn chế: Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển
mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người.
Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu
giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục
toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập. Xu hướng thương mại hoá và sa
sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi
bức xúc của xã hội.
- Đại hội cũng đưa ra phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo: “Ưu tiên
hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình nội dung,
phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ
sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của
học sinh, sinh viên”.
1.3. Tình hình nghiên cứu, thử nghiệm chiến lược đổi mới phương pháp dạy
học ở nước ta trong thời gian gần đây
13
- Bàn về phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học, trong
khoảng hơn 10 năm gần đây, chúng ta tốn không ít thời gian và giấy mực. Đổi mới
phương pháp giáo dục và đào tạo khắc phục được lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện
đại vào quá trình dạy học, phát huy tính tự giác chủ động sáng tạo của học sinh phù
hợp hơn với đặc điểm của từng lớp học, môn học. [2]
- Tuy nhiên khi đổi mới phương pháp dạy học còn gặp nhiều khó khăn:
+ Đổi mới phương pháp dạy học luôn song hành với việc không ngừng tăng
cường và đổi mới các phương tiện dạy - học. Có thể nói rằng các điều kiện cơ sở vật
chất của các trường học hiện nay dù đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
+ Phương pháp nói chung và phương pháp dạy học nói riêng đều tùy thuộc
rất nhiều vào đối tượng cho nên không thể áp dụng đồng loạt việc đổi mới phương
pháp dạy học theo 1 kiểu ở tất cả các trường khác nhau.
+ Nhiều thầy cô vẫn chưa hiểu được bản chất của việc đổi mới phương pháp
dạy học mà suy nghĩ theo cách giản đơn. Có thầy, cô thay việc “đọc, chép” bằng
việc hỏi quá nhiều mà phần nhiều các câu hỏi ấy lại không tạo được “tình huống có
vấn đề”. Có thể họ đã nghĩ sử dụng phương pháp dạy học mới là việc thay đọc chép
bằng việc hỏi đáp, hỏi đáp càng nhiều thì càng đổi mới.
- Về mặt nhận thức, đổi mới phương pháp dạy học là vô cùng cần thiết trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay và nó cũng là 1 yêu cầu “sát sườn” đối với từng
trường học. Đây được xem là một vấn đề lớn và phức tạp. Vì vậy để đổi mới
phương pháp dạy học điều cần quan tâm trước hết là trình độ vận dụng của giáo
viên cũng như khả năng thích ứng của học sinh, ngoài ra còn phải xem xét phương
tiện dạy và học có đáp ứng yêu cầu đổi mới hay không? Đấy chính là những yếu tố
quyết định thành công (hay thất bại) của việc đổi mới phương pháp dạy và học.
1.3.1. Về vấn đề “ Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”
- Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước thời mở
cửa, ngành giáo dục phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng. Thực tế ngày
chứng minh rằng trong quá trình học, người học đòi hỏi kiến thức, thông tin rộng