Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Sử Dụng Một Số Loài Cây Họ Đậu Trong Việc Thúc Đẩy Quá Trình Phục Hồi Độ Phì Nhiêu Của Đất Nương Rẫy Thoái Hóa Tại Huyện Con Cuông Tỉnh Nghệ An
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-------------------
TRẦN XUÂN MINH
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG MỘT SỐ LOÀI CÂY HỌ ĐẬU TRONG VIỆC
THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH PHỤC HỒI ĐỘ PHÌ NHIÊU CỦA ĐẤT
NƯƠNG RẪY THOÁI HÓA TẠI XÃ CHÂU KHÊ – HUYỆN
CON CUÔNG – TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.60
e
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Xuân Hoàn
Hà Nội - 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở các vùng núi của Việt Nam nói chung và ở Nghệ An nói riêng, nơi có
các cộng đồng dân tộc ít người sinh sống, du canh luân hồi với giai đoạn bỏ
hóa bị rút ngắn, đất ngày càng bị suy thoái đang là vấn đề phổ biến.
Một trong những vấn đề chính đang có tác động xấu đến sản xuất nông
lâm nghiệp ở những vùng đất dốc của nước ta là quá trình suy thoái đất đang
diễn ra rất mạnh mẽ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến quá trình này, song tựu
trung lại là do chưa có giải pháp quản lý độ phì của đất hợp lý. Việc sử dụng
đất hầu như đang tập trung vào việc bóc lột sức sản xuất của đất, mới chú
trọng đến các biện pháp bón phân hoá học mà chưa chú ý đúng mức đến việc
duy trì và tăng cường lượng chất hữu cơ cho đất. Hiện trạng đất dốc của Việt
Nam (trong đó có đất nương rẫy) đang sử dụng trong nông lâm nghiệp phân
bố trên các dộ dốc khác nhau, trong đó đất bị thoái hoá nghiêm trọng chiếm
5,5 triệu ha, bị thoái hoá trung bình chiếm 4,6 triệu ha và đất thoái hoá nhẹ
chiếm khoảng 4,6 triệu ha. [18]
Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh Nghệ An 1649,1 nghìn ha, trong đó có
915,9 nghìn ha đất lâm nghiệp và hơn 300 nghìn ha đất chưa sử dụng, trong
số đất chưa sử dụng phần lớn là đất lâm nghiệp (Cục thống kê Nghệ An,
2009). Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nghệ An, hiện nay trên
toàn miền núi Nghệ An có khoảng 200 nghìn ha đất nương rẫy cố định.
Do chính sách giao đất giao rừng được tiến hành khá triệt để và sự quản
lý chặt chẽ của các Hạt kiểm lâm huyện, người dân miền núi Nghệ An chỉ sản
xuất lúa nương và cây hoa màu ngắn ngày trong phần diện tích đất rẫy được
giao. Sau một thời gian canh tác trên diện tích đất được giao này, hiện nay sức
sản xuất của đất đã bị suy thoái và người dân đang phải đối mặt với khó khăn
là có trồng trọt mà không có hoa lợi. Từ thực tiễn trên, trong các nghị quyết
của Tỉnh ủy, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, định hướng khoa học và công
2
nghệ Tỉnh Nghệ An đã đưa vấn đề này vào chương trình trọng tâm cần được
giải quyết.
Hiện đã có một số nghiên cứu về việc sử dụng các loại cây trồng xen hay
trồng luân canh nhằm tăng cường bảo vệ đất, chống xói mòn và tăng cường
độ phì nhiêu của đất. Phần lớn các nghiên cứu này lại hướng đến các loài cây
nhập nội, mới được triển khai nghiên cứu ở vùng núi phía Bắc, hoặc mới
dừng lại các khuyến nghị mà chưa đưa ra các quy trình cụ thể.
Vùng núi tỉnh Nghệ An, về yếu tố tự nhiên, có những nét đặc thù chung
cho vùng núi Bắc Trung Bộ và cũng có những nét riêng biệt. Ngoài ra, với sự
đa dạng về dân tộc, đây là vùng kinh tế sinh thái đặc thù và có vai trò rất lớn
trong nền kinh tế của tỉnh Nghệ An. Do vậy, việc xây dựng được quy trình
phù hợp với những yếu tố trên là cần thiết và có ý nghĩa rất lớn không chỉ về
mặt môi trường mà còn có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội.
Xuất phát từ cơ sở khoa học và thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu sử dụng một số cây họ đậu trong việc thúc đẩy quá trình phục
hồi độ phì nhiêu của đất nương rẫy thoái hóa ở xã Châu Khê - huyện Con
Cuông - tỉnh Nghệ An”
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Những vấn đề của canh tác nương rẫy trên đất dốc
Với bình quân 0,5 ha đất tự nhiên hoặc dưới 1.000m2 đất canh tác cho 1
người, Việt Nam là một trong những nước hiếm đất nhất thế giới. Trữ lượng
đất vùng châu thổ đã khai thác gần như đến mức tới hạn nên việc tiếp tục phát
triển nông nghiệp trong những thập kỷ tới phần lớn phải phụ thuộc vào việc
phục hồi và sử dụng hợp lý tài nguyên đất vùng cao có độ dốc và mức độ phì
nhiêu khác nhau [15].
Việc sử dụng đất dốc gặp phải hàng loạt trở ngại như xói mòn, rửa trôi
bề mặt, rửa trôi theo chiều sâu, thiếu độ ẩm, đất chua, nghèo kiệt dinh dưỡng
và độ dễ tiêu thấp. Nhưng nương rẫy là phương thức canh tác không thể thiếu
được trong sinh kế của nhiều cộng đồng dân tộc vùng cao. Tuy nhiên, nó ngày
càng không phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, cả
nước ta có hơn 1,2 triệu đất nương rẫy được canh tác theo phương thức truyền
thống “chọc lỗ, trỉa hạt”, hiệu quả sản xuất thấp và thiếu bền vững, đi ngược
lại với xu hướng phát triển bền vững đang ngày càng được chú trọng. Canh
tác nương rẫy là nguyên nhân gây ra 60 – 70% số vụ cháy rừng và khoảng
gần 60% tổng diện tích rừng bị chặt phá hàng năm. Do đó, chính phủ đã có
nhiều chương trình nhằm mục tiêu đảm bảo quản lý và sử dụng có hiệu quả
dạng đất này. [6]
Để chấn chỉnh tình trạng phát nương làm rẫy quảng canh, thiếu quy
hoạch và sự quản lý thiếu chặt chẽ, giảm thiểu nạn cháy rừng và phá rừng bừa
bãi, đồng thời hướng dẫn cho người dân nâng cao hiệu quả canh tác nương
rẫy; Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ra Chỉ thị 15/2007/CT – BNN
về việc tăng cường công tác quản lý canh tác nương rẫy. Theo đó, các địa
4
phương có rừng phải chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thống kê, xác định cụ
thể hiện trạng diện tích, loại hình canh tác và đối tượng canh tác nương rẫy; rà
soát, quy hoạch nương rẫy đảm bảo sự thống nhất với quy hoạch ba loại rừng
và quy hoạch sử dụng đất đai của địa phương, chú trọng những khu vực có
khả năng canh tác ổn định thì quy hoạch nương rẫy cố định; tổ chức kiểm soát
chặt chẽ các hoạt động canh tác nương rẫy,…Tổ chức tuyên truyền, vận động
đồng bào “du canh du cư” hoặc “du canh định cư”, đốt rừng làm nương rẫy
chuyển sang canh tác nương rẫy cố định.
Việc phát rừng làm nương rẫy trên đất dốc đã làm tăng tổng số và tốc độ
dòng chảy bề mặt. Đây là nguyên nhân chính gây ra xói mòn đất. Theo tính
toán của một số nhà khoa học thì lượng nước chảy mặt trên đất dốc canh tác
nương rẫy tăng gấp 1,35 lần so với rừng tái sinh. Khả năng phục hồi chất dinh
dưỡng trong đất nương rẫy phụ thuộc vào thời gian bỏ hoá. Thời gian bỏ hoá
tối thiểu để lập lại cân bằng dinh dưỡng, bù lại được lượng dinh dưỡng đã mất
đi cần 11 – 20 năm. Bên cạnh đó còn phụ thuộc và phương thức quản lý
nương rẫy khác nhau của người dân.
Theo nghiên cứu của Hoàng Văn Sơn (1998) [17], trên các nương rẫy bỏ
hoá ở Nghệ An, nếu không có tác động của con người, trong những năm đầu
các loại cây bụi và cây gỗ nhỏ sẽ phát triển. Thành phần loài và mật độ của
các loại cây này phụ thuộc vào nguồn gieo giống, hay nói cách khác là phụ
thuộc vào số năm và số lần canh tác nương rẫy đã trải qua. Cũng theo nghiên
cứu của tác giả, trong thời kỳ rẫy bỏ hóa, có sự gia tăng đồng thời cả thành
phần loài thực vật và dinh dưỡng đất, song tốc độ gia tăng không đồng đều.
Trong hai năm đầu của giai đoạn bỏ hóa, thành phần loài thực vật tăng nhanh
song sự tích lũy hữu cơ và các chất dinh dưỡng trong đất vẫn diễn ra chậm.
Đến năm thứ 3 trở đi, khi tầng thảm mục của xác thực vật xuất hiện thì hàm
lượng mùn tăng nhanh.
5
Ở vùng đồi núi Nghệ An, với khoảng 200.000 ha đất nương rẫy cố định.
Mỗi hộ gia đình chỉ được một phần diện tích canh tác nhỏ. Từ đó dẫn đến tình
trạng rút ngắn thời gian bỏ hoá xuống 1 – 2 năm, thậm chí không còn thời
gian bỏ hoá, tuỳ từng vùng. Với khoảng thời gian ít ỏi này, đất chưa kịp phục
hồi phần lớn độ phì đã cung cấp cho cây trồng.
Hậu quả nghiêm trọng là quá trình thoái hoá đất
Các nhà khoa học dự tính rằng, trong điều kiện tự nhiên, để hình thành
một lớp đất mặt dày khoảng 2,5cm từ đá biến thành đất trồng trọt mất khoảng
300 năm. Trong quá trình canh tác, đất được xáo trộn thoáng hơn nên thời hạn
hình thành đất có thể rút ngắn 30 năm. Như vậy, ngưỡng đất bị xói mòn có
thể chấp nhận được là khoảng 1,8 tấn/ha/năm (N.Hudson, 1985). Thế mà chỉ
trong một thời gian ngắn, chỉ vài năm mưa lớn đã làm cuốn trôi lớp đất mặt
đó, quả thật là một sự hoang phí của cải thiên nhiên ban tặng cho con người.
Lượng đất xói mòn thường phụ thuộc vào chế độ canh tác. Trong một thời
gian dài, chế độ du canh của các đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta nói riêng
và ở Nghệ An nói chung đã để lại hậu quả nặng nề. Đất rừng bị khai phá trồng
cây lương thực, cây ngắn ngày, chu kỳ đất bỏ hoá rút ngắn, tầng đất mặt cứ
mỏng dần trong quá trình canh tác.
Tình trạng chung trên đất dốc, nhất là ở vùng núi cao, khoảng 1/3 diện
tích phía trên dốc thường có lớp đất mỏng dưới 10 – 30 cm. Qua thời gian
canh tác không hợp lý, lớp đất mặt bị trôi xuống phía chân đồi núi làm cho độ
phì nhiêu không đồng đều, năng suất cây trồng trên dốc giảm sút. Ngay từ
những năm 90 của thế kỷ XX, đã có nhiều kết quả nghiên cứu theo dõi nhằm
“số liệu hoá” sự mất mát trên, góp phần nêu rõ hơn tầm quan trọng của đất
đồi núi thoái hoá rửa trôi. Hàm lượng mùn trong đất là chỉ tiêu độ màu mỡ
của đất, khi mới khai hoang được xác định là 3,5%. Sau 5 năm trồng chè còn
2,5%; trồng sắn còn 0,9%. Chè tuy là cây lâu năm chống xói mòn tốt vẫn mất
6
1% mùn, trồng sắn mất tới 2,6%. Nhiều chỉ tiêu khác về độ màu mỡ của đất
cũng diễn biến theo chiều hướng xấu đi như khả năng giữ chất dinh dưỡng
trong đất giảm, kết cấu kém đi. [4]
Hãy làm một con tính ước lượng về tổn thất về xói mòn trên đất dốc.
Nếu lấy lượng xói mòn tối thiểu bình quân là 10 tấn/ha/năm với hàm lượng
chất dinh dưỡng trung bình theo lượng đất trôi là C 2%; N 0,18%; P2O5
0,08%; K2O 0,05% để quy ra lượng phân bón tương đương thì thiệt hại do xói
mòn là rất lớn. [4]
Bảng 1.1. Ước tính thiệt hại tối thiểu do xói mòn trên đất dốc
Chất mất đi Tính ra phân bón
(kg/ha/năm)
Thành tiền (đồng/ha/năm)
Chất hữu cơ
N
P205
K20
200 kg phân chuồng
20 kg phân Urê
8 kg super Lân
5 kg phân Kali
20.000
40.000
80.000
10.000
Cộng 60.000
Nguồn: Hội khoa học Đất Việt Nam, 2000
Giả sử, ở nước ta chỉ có 10 triệu ha đất bị xói mòn với lượng đất mất
bình quân như trên thì hàng năm đã mất đi một lượng dinh dưỡng cho cây
trồng tương đương giá trị phân bón phải mua là: 10 triệu ha x 60.000
đồng/ha = 600 tỉ đồng. Đó là chưa kể lượng dinh dưỡng mất đi do rửa trôi,
do nước thấm theo chiều sâu. Trong thực tế, giá trị mất đi còn lớn hơn nhiều
vì lượng đất và dinh dưỡng mất đi đó chẳng thể nào và chẳng bao giờ bù lại
được.
Cái nút của vấn đề là xói mòn đất
Xói mòn luôn làm đất canh tác bị thu hẹp dẫn đến mất rừng. Xói mòn
làm đất nhanh bạc màu, cây trồng không phát triển được dẫn tới suy giảm độ
7
che phủ của cây xanh trên bề mặt trái đất. Người ta không nhìn thấy trực diện
khối lượng đất mất đi trong mỗi cơn mưa. Lượng đất mất đi đã hoà tan vào
nước và cuốn trôi theo mưa lũ. Đây chính là nút bí hiểm gây nên sự trì trệ về
nhận thức đối với công tác chống xói mòn cũng như cách nhìn nhận về sự
việc này. Nếu khối lượng đất màu và dinh dưỡng chứa trong đất không hoà
vào nước mà trôi đi thành từng khối theo mưa, mắt thường nhìn thấy được thì
tới nay công việc chống xói mòn đã không phải bàn tới. Khi đó con người đã
nhìn thất trực diện sự thiệt hại to lớn của xói mòn mà từ đó tìm mọi cách để
ngăn chặn từ lâu. Cái khó ở đây không phải hoàn toàn ở cách làm mà còn khó
cả trong nhận thức, cách nhìn nhận, cùng cách đặt vấn đề.
Hàng năm thiệt hại của xói mòn không có những số liệu cụ thể đo lường
được về sản lượng, về diện tích như lũ lụt, sâu bệnh, hạn hán,… Ngược lại,
cũng không có những số liệu cụ thể về năng suất, chất lượng để so sánh hiệu
quả trực tiếp của từng sự việc, từng mô hình mang tính thuyết phục. Ví dụ:
những phát minh về giống, về cải tiến máy móc thiết bị thì năng suất sẽ cân,
đong, đo, đếm bằng những số liệu chính xác để so sánh bằng những số liệu
chính xác để so sánh giữa hiệu quả và tính hơn hẳn của từng phát minh, từng
sáng kiến. Biểu hiện của xói mòn chỉ là sự đục trong của nước lũ cứ ngày đêm
trôi đi một cách êm đềm, đất mất đi một cách nhẹ nhàng. Đây là vấn đề khách
quan cơ bản tác động xấu nhất tới nhận thức, cách nhìn nhận không đầy đủ,
thiếu chính xác dẫn đến những quyết định chậm trễ trong việc chống xói mòn.
Theo kết quả điều tra của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp năm
1992, toàn vùng khu IV cũ có 1.800.000 ha đất trống, đồi núi trọc trong đó có
khoảng 40% là tầng đất mỏng, nghèo kiệt, khô hạn, chặt rắn ít có khả năng
sản xuất. Tình hình sử dụng không có hoặc ít có hiệu quả đất dốc khiến chúng
ta lo ngại, chính vì vậy có nhiều công trình nghiên cứu sử dụng hợp lý đất đồi
núi ở nước ta. Nguyễn Vỹ, Nguyễn Trọng Thọ cùng nhiều tác giả khác đã đề