Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ số chống oxy hóa ở người tiếp xúc nghề nghiệp với chì vô cơ, tác dụng bảo vệ của sâm Ngọc Linh trên động vật thực nghiệm
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
NGUYỄN VĂN BẰNG
NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ
CHỈ SỐ CHỐNG OXY HOÁ Ở NGƢỜI TIẾP XÚC
NGHỀ NGHIỆP VỚI CHÌ VÔ CƠ, TÁC DỤNG BẢO VỆ
CỦA SÂM NGỌC LINH TRÊN ĐỘNG VẬT THỰC NGHIỆM
CHUYÊN NGÀNH: SỨC KHOẺ NGHỀ NGHIỆP
Mã số: 62.72.01.59
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Hoàng Thanh
2. TS. Trịnh Thanh Hùng
HÀ NỘI - 2013
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chì và các hợp chất vô cơ của chì (gọi chung là chì) đã được sử dụng từ
hàng ngàn năm trước công nguyên. Mặc dù có nhiều tác hại đối với sức khoẻ
con người, song chì là nguyên liệu không thể thay thế trong nhiều ngành công
nghiệp [25]. Vì vậy, chì vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong hiện tại và
tương lai cho nên số lượng người tiếp xúc không những không giảm mà còn
có xu hướng tăng lên. Hiện có khoảng hơn 150 nghề và trên 400 quá trình
công nghệ khác nhau có sử dụng chì và các hợp chất của chì [3]. Trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sản xuất ắc quy và sản xuất
thuốc gợi nổ là hai ngành rất quan trọng, không những phục vụ cho quốc
phòng mà còn phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
Chì gây nhiều tổn thương đa dạng và phức tạp trên hầu hết các cơ quan
và tổ chức như tổn thương hệ thống thần kinh, tiêu hóa, sinh sản, tim mạch,
xương khớp, thận tiết niệu và đặc biệt nổi bật trên hệ thống tạo máu… Các
nhà khoa học đã chứng minh rằng, cơ chế gây độc của chì là ức chế và liên
kết đặc hiệu đối với các enzym, các chất sinh học có chứa nhóm -SH trong
cấu trúc phân tử [25].
Từ những hiểu biết cơ bản này, người ta đã điều chế ra một số thuốc
điều trị đặc hiệu để sử dụng trong điều trị nhiễm độc chì như dimercaprol
(British Anti Lewisite, BAL), D-penicillamin, succimer, CaNa2EDTA... Các
thuốc này khi đưa vào cơ thể sẽ can thiệp vào cơ chế bệnh sinh do chì gây ra
[5], [25], [62]. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị chưa được như mong muốn, nhất
là trong nhiễm độc chì mạn tính. Bởi vậy, người ta đặt vấn đề: phải chăng
ngoài cơ chế gây nhiễm độc được thừa nhận như đã nêu trên, chì còn gây tổn
thương cơ thể theo những cơ chế khác nữa.
Vấn đề đặt ra là cần phải có hướng nghiên cứu tiếp về cơ chế bệnh sinh
và điều trị người tiếp xúc nghề nghiệp với chì. Gần đây, một số nghiên cứu
3
trên người và động vật đã gợi ý rằng, chì có khả năng kích thích tạo gốc tự do
và làm giảm chức năng của hệ thống chống gốc tự do trong cơ thể. Như vậy,
chì được xem như một xenobiotic, khi vào cơ thể có khả năng tác động như
một stress oxy hóa. Có thể đây là một trong các cơ chế sinh bệnh học quan
trọng cần phải làm sáng tỏ. Điều này phù hợp với đặc điểm tổn thương đa
dạng và không mang tính đặc hiệu trên nhiều tổ chức và cơ quan trong nhiễm
độc chì. Làm rõ được vấn đề này, cần đánh giá sự thay đổi các enzym chống
oxy hóa ở công nhân tiếp xúc nghề nghiệp với chì [36], [70], [123], [152].
Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại dược phẩm có tác dụng chống
oxy hóa như belaf, selen, glutathion…. Ngoài tác dụng được coi là bổ, tăng
lực, sinh thích nghi, chống viêm, giảm đau, bảo vệ gan…thì sâm Ngọc Linh
tự nhiên và sâm Ngọc Linh sinh khối đã được chứng minh là có khả năng
chống oxy hóa rất tốt, bảo vệ cơ thể chống lại các stress oxy hóa [20]. Việc
ứng dụng và đánh giá hiệu quả bảo vệ của sâm Ngọc Linh tự nhiên hoặc sâm
Ngọc Linh sinh khối đối với các đối tượng tiếp xúc độc hại nói chung và chì
nói riêng là những vấn đề mới thực tế chưa được nghiên cứu nhiều. Làm sáng
tỏ được vấn đề này, sẽ góp phần tìm kiếm thêm một loại chế phẩm tốt phục
vụ cho công tác dự phòng và điều trị nhiễm độc chì trong tương lai.
Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu:
1. Xác định sự thay đổi một số thông số chống oxy hóa và hóa sinh
máu ở người tiếp xúc nghề nghiệp với chì và ở chuột nhắt trắng được gây
nhiễm độc chì.
2. Đánh giá tác dụng bảo vệ của sâm Ngọc Linh sinh khối trên chuột
nhắt trắng được gây nhiễm độc chì bán trường diễn.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN
4
1.1. Gốc tự do và hệ thống chống gốc tự do của cơ thể.
1.1.1. Khái niệm.
Gốc tự do là những nguyên tử, nhóm nguyên tử hay phân tử mà lớp
ngoài cùng chứa các điện tử không ghép cặp (điện tử đơn độc). Chúng có thể
mang điện tích âm hoặc không mang điện và có khả năng phản ứng cao. Vì
vậy, gốc tự do thường bất ổn cả về năng lượng cũng như động học. Nó có
khuynh hướng đạt tới sự ổn định, thời gian tồn tại rất ngắn, hoạt tính rất
mạnh. Quá trình sinh gốc tự do là một quá trình chuyển hóa bình thường của
cơ thể [12], [38], [138].
Gốc tự do có xu hướng mất điện tử để trở thành gốc khử hoặc nhận
điện tử để trở thành gốc oxy hóa. Gốc tự do không ghép cặp nên dễ dàng tấn
công vào các phân tử tạo ra các phân tử mới, gốc mới và gây ra phản ứng dây
chuyền. Các gốc tự do chủ yếu là các dạng oxy hoạt động được hình thành qua
chuỗi hô hấp tế bào, trong quá trình peroxy hóa lipid của các acid béo chưa bão
hòa [2], [12], [38].
1.1.2. Gốc tự do và các dạng oxy hoạt động trong cơ thể.
Trong đời sống tế bào bình thường, oxy là nhiên liệu chủ yếu cần thiết
cho sự sống của tế bào và cũng là nguồn gốc chính sản sinh ra gốc tự do. Các
dạng oxy hoạt động (reactive oxygen species - ROS) là những gốc tự do,
những ion hoạt động, phân tử có chứa nguyên tử oxy, có khả năng sinh ra gốc
tự do hoặc được hoạt hóa bởi các gốc tự do [39].
Những dạng ROS quan trọng trong cơ thể sinh vật gồm: anion
superoxid , hydrogen peroxide (H2O2), gốc hydroxyl (•OH), oxy đơn bội
1O2, gốc alkoxyl (LO•
) hoặc peroxyl (LOO•
)…
+ Superoxid được tạo thành từ chuỗi hô hấp tế bào hoặc từ một số phản
ứng tự oxy hóa và trong quá trình bùng nổ hô hấp của hiện tượng thực bào.
e
-
+ •O-O
•
O2
O2
5
+ Hydrogen peroxid (H2O2) có thể được hình thành sau phản ứng dị ly của
hoặc do phản ứng khử hai điện tử của oxy. H2O2 có hoạt tính hóa học hạn chế,
là chất tan trong lipid và có thể xuyên qua các màng sinh học.
+ Gốc hydroxyl (•OH) được hình thành từ phản ứng Fenton hoặc phản
ứng Haber-Weiss xảy ra chậm. Khả năng phản ứng của gốc hydroxyl là rất
lớn trong môi trường sinh học, có khả năng phản ứng với rất nhiều thành phần
của tế bào.
+ Gốc alkoxyl (LO•
) hoặc peroxyl (LOO•
), có thể được tạo ra dưới tác
động của một gốc tự do có chứa oxygen ( , HO•
...) trên những chuỗi acid
béo có nhiều nối đôi.
+ Oxy đơn bội (1O2) là một dạng oxy có năng lượng cao, hình thành khi
O2 được cung cấp năng lượng, nó không phải là gốc tự do nhưng có khả năng
oxy hóa cực mạnh, chỉ tồn tại trong nước và thời gian bán hủy là 2µs. Oxy đơn
bội được tạo thành ở hệ thống sinh học trong một số sắc tố như chlorophyll,
retinal và flavin khi chúng được chiếu sáng với sự có mặt của oxy.
1.1.3. Stress oxy hóa.
Trong những cơ thể sống ái khí khỏe mạnh, gần như có sự cân bằng
giữa sản sinh các dạng oxy hoạt động với hệ thống chống oxy hóa [42]. Stress
oxy hóa dùng để chỉ sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa quá trình tạo thành
các dạng oxy hoạt động với hệ thống chống oxy hóa. Nếu stress oxy hóa ở
mức độ nhẹ, các phân tử sinh học bị tổn thương có thể được sửa chữa hoặc
thay thế. Ở mức độ nặng nề hơn, stress oxy hóa có thể gây tổn thương không
hồi phục hoặc chết tế bào [12], [38].
Stress oxy hóa có thể là kết quả của ba yếu tố: suy giảm hệ thống chống
oxy hóa, tăng tạo thành các dạng oxy hoạt động và thiếu khả năng sửa chữa
các tổn thương do quá trình oxy hóa trong cơ thể [12].
1.1.4. Quá trình hình thành các gốc tự do.
O2
O2
6
Các gốc tự do trong cơ thể được tạo ra thường xuyên: qua chuỗi hô hấp
tế bào, tác nhân phóng xạ, hội chứng viêm, trong hiện tượng thiếu máu cục bộ
- tưới máu lại, các tác nhân xenobiotic và một số tác nhân khác.
1.1.4.1. Chuỗi hô hấp tế bào.
Hô hấp tế bào được thực hiện trong ty thể, bao gồm các phản ứng oxy
hóa khử oxy để sinh ra nước và năng lượng dưới dạng ATP (phản ứng oxy
hóa khử là quá trình cho và nhận điện tử, do vậy sản sinh ra các gốc), O2 mà
chúng ta hít thở nhận một điện tử ở bước đầu tiên tạo ra .
Cơ chất e- + •O-O
•
sinh ra tỷ lệ thuận với cường độ hô hấp tế bào (tỷ lệ với năng lượng
sinh ra), là một gốc anion độc hại ở mức trung bình và chúng bị phân hủy bởi
nhiều cơ chế khác nhau. Sự phân huỷ được xúc tác bởi enzym SOD,
chuyển thành H2O2 theo cơ chế tự oxy hóa khử.
2 + 2H+
H2O2 + O2
SOD có hai dạng chính là MnSOD (là SOD mà trung tâm hoạt động có
mangan) và CuZnSOD (là SOD mà trung tâm hoạt động có đồng và kẽm).
Trong ty thể, enzym MnSOD phân hủy khoảng 80% gốc khi chúng vừa được
sinh ra, còn gốc nào thoát ra bào tương (khoảng 20%) sẽ bị loại bỏ bởi enzym
CuZnSOD và nhờ hai enzym này mà gốc không đến được màng tế bào, vượt
ra ngoài tế bào và do vậy dịch ngoại bào hầu như không có [39], [134].
H2O2 thường xuyên sinh ra do sự phân hủy , nồng độ H2O2 (10-8
mol/L) và (10-12 mol/L) trong tế bào tương đối ổn định. Tuy nồng độ thấp
như vậy, nhưng sự tồn tại đồng thời của chúng trong môi trường sinh học là
rất nguy hại. Phản ứng giữa chúng sinh ra những sản phẩm 1O2 cũng rất nguy
hại, gốc •OH với hoạt tính cao, có khả năng phá hủy những cấu trúc hữu cơ
bền vững nhất của cơ thể và gây ra các quá trình bệnh lý.
O2
O2
O2
O2
O2 SOD
O2
O2
O2
O2
O2
7
Khi không có mặt của ion Fe2+, Cu2+ thì phản ứng này xảy ra chậm, gọi
là phản ứng Harber-Weiss.
+ H2O2 HO• + HO-
+ 1O2
Khi có mặt của các ion Fe2+, Cu2+ thì tốc độ phản ứng xảy ra rất nhanh
(phản ứng Fenton). Hai tiểu phân và H2O2 không độc có thể tạo ra 1O2,
•OH có khả năng phản ứng rất cao, dễ dàng phản ứng với các chất hữu cơ tạo
ra các peroxid và từ đó tạo ra nhiều sản phẩm độc hại cho tế bào.
2 + 2 H+ H2O2 + O2
Và khi đó ion kim loại chuyển tiếp (Fe2+
, Cu2+) dễ dàng phân tách H2O2
thành gốc hydroxyl.
Fe2+
+ H2O2 HO• + HO-
+ Fe3+
Gốc •OH có khả năng phản ứng mạnh với hầu hết các phân tử sinh học
ở tốc độ khuếch tán, vì vậy nó thường phản ứng trước khi khuếch tán tới
những nơi có khoảng cách xa trong tế bào. Gốc •OH có thời gian tồn tại ngắn,
khả năng gây tổn thương lớn, nhưng chỉ gây tổn thương trong phạm vi bán
kính nhỏ [3], [12], [39], [145].
1.1.4.2. Tác nhân phóng xạ.
Các tia phóng xạ hoặc bức xạ có năng lượng cao, có khả năng bẻ gãy
một phân tử tạo ra 2 hay nhiều gốc tự do. Trong cơ thể chúng ta chiếm phần
lớn là nước, do vậy khi các bức xạ có năng lượng cao tác động trên cơ thể, sẽ
phân huỷ nước tạo thành các phân tử khác và sản sinh gốc tự do [3], [43].
1.1.4.3. Trong hội chứng viêm.
Theo Almagor M và cs (1984) [34], hội chứng viêm là một phản ứng
tự vệ của cơ thể khi có các tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể. Khi các tác nhân
(là các kháng nguyên) xâm nhập vào cơ thể sẽ bị bạch cầu đa nhân trung tính
bắt giữ, đồng thời lại kích hoạt bạch cầu đa nhân trung tính tăng tiêu thụ oxy,
kích thích enzym của màng tế bào là NADPH-oxidase, từ đó gây phản ứng
O2
O2
O2
8
xúc tác bởi enzym này, kết quả cuối cùng là tạo ra . Nếu số lượng gốc tự
do sinh ra quá nhiều sẽ gây nên một tỷ lệ bạch cầu bị chết, giải phóng các gốc
ROS ra ngoại bào gây nên hiện tượng viêm.
1.1.4.4. Trong quá trình thiếu máu cục bộ và tưới máu lại.
Khi thiếu máu cục bộ do lòng mạch máu bị hẹp hoặc có cục máu đông,
các chất xanthine được tích lũy do tăng thoái hóa ATP và xanthine oxidase
được hoạt hóa. Khi có sự tưới máu trở lại, với sự có mặt của oxy, xanthine
oxidase xúc tác phản ứng chuyển điện tử từ hypoxanthine và xanthine sang O2
và phản ứng oxy hóa xảy ra rất mạnh, một lượng lớn gốc hình thành lại
chuyển thành H2O2,
•OH và 1O2 [3], [12], [138].
2 H+
Xanthin + O2 Xanthin dạng oxy hoá +
2 H+
2 H2O2 + 1O2
1.1.4.5. Tác nhân xenobiotic.
Các chất xenobiotic (thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, chì, CCl4, dioxin ...)
xâm nhập vào cơ thể bằng nhiều con đường khác nhau, khi vào cơ thể sẽ bị
chuyển hóa và làm biến đổi sinh học. Sau quá trình chuyển hóa đó, cấu trúc
xenobiotic bị biến đổi rõ rệt, chúng có thể gắn thêm nhóm -OH, -NH2, -SH,
-COOH... tạo thành các chất dễ tan trong nước và tiếp tục liên hợp với các
chất, đào thải ra khỏi cơ thể.
Trong quá trình chuyển hóa các chất xenobiotic, tạo ra các dạng ROS
như ,
1O2...có độc tính cao và gây ra tình trạng stress oxy hóa. Các chất
chống oxy hóa trong cơ thể như SOD, catalase, protein có nhóm SH,
ceruloplasmin trong hồng cầu và gan rất nhạy cảm với các xenobiotic. Do
vậy, khi có các xenobiotic xâm nhập vào cơ thể, các chất chống oxy hóa này
sẽ thay đổi theo hướng chống lại các tác nhân đó [27], [68], [138].
1.1.4.6. Một số tác nhân khác.
O2
O2
O2
O2
O2
9
Trong một số bệnh lý: bệnh đái đường, vữa xơ động mạch, bệnh lý
nhãn khoa, lão hóa, bệnh Parkinson và Alzheimer…cũng tăng tạo các dạng
ROS [7], [12].
1.1.5. Hệ thống chống oxy hóa trong cơ thể.
Trong cơ thể luôn tồn tại các dạng oxy hoạt động, đồng thời cũng tồn
tại một hệ thống chống oxy hóa để loại bỏ các tác hại của chúng. Hệ thống
này hoạt động theo 4 con đường sau: (1) tạo phức làm mất khả năng xúc tác
của các kim loại chuyển tiếp (transferin), (2) làm gián đoạn các phản ứng lan
truyền (α-tocoferol), (3) làm giảm nồng độ các gốc tự do hoạt động
(glutathion), (4) thu dọn các gốc tự do tham gia khơi mào phản ứng
(superoxid dismutase) [41].
Hệ thống gồm các chất chống oxy hóa có bản chất enzym và có bản
chất không enzym.
Sơ đồ 1.1. Mối liên quan giữa các enzym bảo vệ tế bào
10
và các chất chống oxy hóa
(Nguồn: theo William J. Marshall, Stephen K. Banger (1995) [161]).
1.1.5.1. Hệ thống chống oxy hóa có bản chất enzym.
- Superoxid dismutase (SOD, EC 1.15.1.1)
Superoxid dismutase (SOD) là enzym chống oxy hóa có chứa kim loại
thuộc loại oxidoreductase, nó xúc tác cho phản ứng chuyển hóa superoxid
thành O2 và H2O2:
2 + 2H+
SOD H2O2 + O2
SOD có hoạt tính càng cao thì O2
•
có hoạt tính càng nhỏ, SOD là một
chất chống oxy hóa rất cơ bản, làm hạ thấp nồng độ tiền chất , mà từ đó sẽ
sản sinh ra tất cả các dạng oxy hoạt động khác.
Cơ chế phản ứng của SOD: SOD là metalloenzym chống oxy hóa hữu
hiệu trong tế bào, xúc tác phản ứng dị ly oxy hóa khử, phân hủy gốc
superoxid. Quá trình trao đổi điện tử thực chất xảy ra tại trung tâm hoạt động
ion kim loại (Me) theo cơ chế phản ứng oxy hóa khử vòng gồm 2 bước:
Me3+ + Me2+ + O2
Me2+ + + 2H+ Me3+ + H2O2
Đầu tiên Me3+ bị khử bằng cách nhận một điện tử của gốc và trở
thành dạng oxy hóa Me2+
, còn chuyển thành O2. Khi đó Me2+ tiếp tục
tương tác với một gốc và nhường điện tử cho nó, với sự có mặt của H+
chúng kết hợp với nhau để tạo thành H2O2. Quá trình này tiếp tục lặp đi, lặp
lại tạo nên một chu trình phản ứng khép kín. Chu kỳ bán hủy của SOD từ vài
phút đến vài giờ, nó phụ thuộc vào nhóm SOD khác nhau. SOD không qua
được màng tế bào nên chỉ có tác dụng cải thiện khả năng chống oxy hóa nội
bào [12], [39].
- Catalase (CAT, EC 1.15.1.1).
O2
O2
O2
O2
O2
O2
O2
11
Catalase là enzym xúc tác phản ứng phân hủy H2O2 và chỉ hoạt động
khi H2O2 ở nồng độ cao (lớn hơn 10-8 mmol/L), catalase không phân hủy
được peroxide hữu cơ và H2O2 vô cơ ở nồng độ thấp vì chúng chỉ được hoạt
hóa khi H2O2 ở nồng độ cao.
H2O2 Catalase
H2O + ½ O2
Catalase có mặt trong hầu hết các tế bào và các mô động vật nhưng
hoạt tính mạnh nhất là ở gan và thận, ít nhất là ở mô liên kết và trong các mô,
catalase có chủ yếu trong các ty thể và peroxisome [12], [39], [88], [138].
- Peroxidase (EC 1.11.1.7).
Peroxidase là một nhóm enzym xúc tác các phản ứng oxy hóa khử,
thuộc lớp oxidoreductase, xúc tác cho phản ứng sau.
AH2 + H2O2
peroxidase
A + 2H2O
Những gốc được sinh ra từ O2 trong chuỗi vận chuyển điện tử sẽ bị
SOD phân huỷ, nhưng lại tạo ra nhiều H2O2. Vì vậy việc loại bỏ H2O2 là rất
cần thiết, đảm bảo hoạt động nội bào diễn ra bình thường. Peroxidase sử dụng
H2O2 như là một chất nhận điện tử xúc tác cho nhiều phản ứng oxy hóa khử
khác nhau, khi đó H2O2 bị khử thành H2O.
Hầu hết các peroxidase có cùng cơ chế xúc tác phản ứng phân giải
H2O2 và được thực hiện theo các bước sau:
- Tạo thành phức I hoạt động:
Enzym + H2O2 Complex I
- Chuyển hóa phức hợp I thành phức hợp II hoạt động:
Complex I + AH2 Complex II + •AH
- Tái tạo enzym bằng quá trình khử phức hợp II:
Complex II + AH2 Enzym + •AH + 2 H2O
- Tạo thành sản phẩm:
•AH + •AH Sản phẩm oxy hóa Không còn gốc tự do
(dập tắt phản ứng dây chuyền)
O2
12
Peroxidase có coenzym là nhóm heme b. Heme b là phức hợp tạo bởi
phân tử protoporphyrin IX và một ion Fe2+ hoặc Fe3+ ở trung tâm. Một số
peroxidase còn mang gốc amino acid chứa vòng thơm nằm song song với mặt
phẳng imidazol và chúng tương tác với nhau bằng lực Vander Waals [2], [41].
- Glutathion peroxidase (GPx) (E C.1.11.1.9).
GPx là enzym xúc tác cho phản ứng loại bỏ các loại peroxid, hoạt động ở
các mô và trong hồng cầu khi nồng độ H2O2 thấp.
GPx
ROOH + 2GSH GSSG + ROH + H2O
Enzym này chủ yếu tồn tại bên trong ty thể và bào tương của tế bào, ở
dịch ngoại bào rất thấp.
GPx có hai loại: không phụ thuộc selen chiếm 20%, xúc tác sự khử các
hydroperoxid hữu cơ khi có mặt glutathion nhưng không có tác dụng trên
H2O2; GPx phụ thuộc selen chiếm 80% xúc tác loại bỏ H2O2.
Glutathione có bản chất là một tripeptide (L-γ-glutamyl cysteinyl
glycine), chính nhờ sự liên kết γ-peptide giữa glutamic acid và cysteine đó mà
glutathione được bảo vệ, tránh khỏi sự phân hủy bởi amino peptidase.
Glutathione tồn tại ở 2 dạng: dạng khử (thiol GSH) và oxy hóa (disulfide GSSG). Cơ chế phản ứng của glutathione tham gia vào quá trình phân giải hợp
chất peroxide như sau:
Hệ thống glutathion peroxidase gồm: glutathion peroxidase, glutathion
reductase, glucose-6-phosphat dehidrogenase. Hoạt độ của GPx và catalase
phụ thuộc vào nồng độ H2O2, khi nồng độ H2O2 cao ức chế GPx và hoạt hóa
catalase hoạt động và ngược lại khi nồng độ H2O2 thấp chỉ có GPx hoạt động
13
và catalase bị ức chế, điều này rất quan trọng vì nó tiết kiệm glutathion dạng
khử cho cơ thể [2], [137].
1.1.5.2. Hệ thống chống oxy hóa có bản chất không enzym.
Gồm ba nhóm chính: nhóm các polyphenol, các phối tử sắt và đồng,
các thiol. Các nhóm có thể tồn tại ở cả trong và ngoài tế bào. Hệ thống này hỗ
trợ hệ thống chất chống oxy hóa có bản chất enzym.
- Nhóm các polyphenol.
Các polyphenol (dạng ortho) có khả năng tạo phức với ion sắt hoặc
đồng nên có thể làm mất khả năng xúc tác của những ion này ở phản ứng
Fenton [12].
+ Vitamin E.
Là chất chống oxy hóa hòa tan trong lipid, phân bố rộng khắp trong các
tế bào, được coi như chất bảo vệ của màng sinh học và ngăn cản quá trình oxy
hóa các acid béo chưa bão hòa của màng.
Vitamin E có thể liên kết với phần hydrocacbon của acid béo chưa bão
hòa nhiều nối đôi, vì vậy nó tiếp cận gần vị trí của quá trình peroxi hóa, dập
tắt những phản ứng chuỗi của gốc tự do.
Cơ chế chống oxy hóa: vitamin E bị oxy hóa, trở thành gốc tocopherol
không bền vững và bị bẻ gẫy dị vòng tạo nên tocopherol quinon (đây không
phải là chất chống oxy hóa trong cơ thể sống và không biến đổi trở lại thành
vitamin E). Hoạt tính chống gốc tự do của vitamin E được tăng cường nếu
phối hợp với β caroten, vitamin C và selen [23], [38].
+ Các flavonoid.
Là một họ chất rất phổ biến trong thực vật, có bản chất hóa học là
những polyphenol. Các flavonoid có các nhóm hydroxyl phenolic, nhóm
carbonyl, vòng thơm benzen nên chúng có khả năng phản ứng rất lớn. Chúng
có khả năng triệt tiêu các gốc tự do sinh ra trong quá trình bệnh lý của cơ thể,
14
tạo nên những gốc tự do của chúng bền vững hơn và không tham gia vào dây
chuyền phản ứng gốc [3], [38].
+ β caroten.
Trong cơ thể, β caroten chống lại các gốc tự do, dập tắt phản ứng dây
chuyền, vô hiệu hóa đặc hiệu đối với phân tử oxy bị kích hoạt (oxy đơn bội
1O2) . Nhờ có hệ liên kết đôi luân phiên trên mạch cacbon dài, một phân tử β
caroten có thể hấp thu năng lượng của hàng ngàn phân tử 1O2 rất nguy hiểm,
sau đó giải phóng năng lượng dưới dạng nhiệt vô hại [2], [3].
+ Vitamin C.
Vitamin C là chất chống oxy hóa, chống gốc tự do điển hình ở ngoại
bào. Vitamin C có tác dụng đưa vitamin E từ dạng oxy hóa về dạng khử (phục
hồi vitamin E sau khi vitamin E tham gia quá trình chống gốc tự do).
Vitamin E-O
•
+ Vitamin C khử Vitamin E-OH + Vitamin Coxy hóa
Vitamin C còn có tính chất chống oxy hóa ở môi trường nước như loại
hydrogen peroxide, loại bỏ các gốc ,
•OH và chặn đứng các phản ứng dây
chuyền theo cơ chế gốc tự do [3], [12], [28].
- Nhóm các phối tử sắt và đồng.
Ion sắt và đồng xúc tác phản ứng Fenton, tạo nên hai dạng oxy hoạt động
rất độc hại cho cơ thể là gốc hydroxyl (
•OH) và oxy đơn bội. Ion sắt nếu tạo
được phức qua đủ 6 liên kết phối trí thì không có khả năng xúc tác phản ứng
trên nữa. Một số chất tạo phức chelat với sắt có đủ 6 liên kết phối trí như:
+ Transferrin: là dạng protein vận chuyển sắt của huyết tương, ở
người khỏe mạnh chỉ cần huy động 20 - 30% lượng transferrin là đủ làm mất
hoạt tính xúc tác của sắt. Trong một số trường hợp quá tải sắt (hồng cầu vỡ
nhiều trong huyết tán, uống thuốc chứa sắt quá nhiều, tổn thương cơ...), huyết
tương không đủ transferrin và phản ứng Fenton xảy ra rất mạnh.
+ Lactoferin: có nhiều trong dịch sữa, dịch nước mắt, nước mũi, nước
bọt. Lactoferin làm mất hoạt tính xúc tác của sắt trong các dịch trên.
O2
15
+ Ceruloplasmin: là một protein chứa đồng, có khả năng tạo phức với
đồng và làm mất hoạt tính xúc tác phản ứng Fenton của đồng, nó cũng oxy
hóa Fe2+ thành Fe3+, ngăn cản sự tạo thành các gốc oxy hoạt động từ phản ứng
Fenton [39], [85].
- Nhóm các thiol.
Có cấu trúc RSH (R: gốc hydrocarbon), có tính khử mạnh. Nhóm các
thiol cùng với vitamin C chuyển vitamin E từ dạng oxy hóa sang dạng khử, hồi
phục chức năng, dập tắt mạch peroxy hóa lipid của vitamin E [2], [12].
Các thiol có khả năng trung hòa gốc tự do như •OH tạo ra gốc thyil
R-SH + HO•
RS• + H2O
Các gốc thyil (RS•
) có thể kết hợp với nhau để tạo thành phức hợp chất
disulfur (RS-SR) hoặc trung hòa một gốc oxy hóa khác:
RS• + O2 RSO2
•
Các thiol gồm glutathion, mercaptopropionylglycin và acetylcystein.
- Selen.
Selen là một thành phần của nhiều enzym, tạo ra các nhóm chức -S-Se,
-S-Se-S là những tâm hoạt động sinh học mạnh. Selen là một thành phần
trong GPx, có tác dụng loại bỏ gốc tự do, đặc biệt là phá hủy H2O2, dập tắt
các gốc L•
, LOO•
của acid béo, bảo vệ màng tế bào và ADN. GPx chứa selen
tập trung nhiều ở gan để phân giải các chất độc [3], [12], [138].
- Trạng thái chống oxy hóa toàn phần (total antioxidant status: TAS).
TAS là trạng thái chống oxy hóa toàn phần của huyết tương dựa trên
khả năng ức chế và chống lại các chất oxy hóa của các chất chống oxy hóa.
Chúng được quy cho là bao gồm tất cả các chất chống oxy hóa có trong cơ
thể, gồm nhiều hệ thống bảo vệ nhằm chống lại những ảnh hưởng có hại của
gốc tự do và hiện tượng peroxid đối với cơ thể.
TAS được sử dụng để đánh giá tổng quát nhất về tình trạng hoạt động
của hệ thống chống oxy hóa của cơ thể, biểu thị tính sẵn sàng ứng phó của cơ
thể đối với stress oxy hóa [12], [23], [27].