Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu phân vùng lập địa phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp tại tỉnh Bình Phước
PREMIUM
Số trang
135
Kích thước
3.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1585

Nghiên cứu phân vùng lập địa phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp tại tỉnh Bình Phước

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

5

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƢỜNG ĐẠI HOC LÂM NGHIỆP

*****************

TRẦN QUỐC HOÀN

NGHIÊN CỨU PHÂN VÙNG LẬP ĐỊA PHỤC VỤ CHO

SẢN XUẤT LÂM NGHIỆP TẠI TỈNH BÌNH PHƢỚC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2014

6

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƢỜNG ĐẠI HOC LÂM NGHIỆP

*****************

TRẦN QUỐC HOÀN

NGHIÊN CỨU PHÂN VÙNG LẬP ĐỊA PHỤC VỤ CHO

SẢN XUẤT LÂM NGHIỆP TẠI TỈNH BÌNH PHƢỚC

Chuyên ngành: Lâm sinh

Mã số: 62620205

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LÂM NGHIỆP

HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

1. GS.TS Vƣơng Văn Quỳnh

2. TS. Đỗ Xuân Lân

HÀ NỘI - 2014

7

Chƣơng 1

TỔNG QUAN

1.1 TRÊN THẾ GIỚI

1.1.1 Lập địa và yếu tố cấu thành lập địa lâm nghiệp

- Ở Liên Xô, lập địa đƣợc gọi là điều kiện nơi sinh trƣởng, nghĩa là tác

động tổng hợp của các yếu tố ngoại cảnh hình thành nên các kiểu rừng nhất định

và ảnh hƣởng trực tiếp tới sinh trƣởng của thực vật rừng [61].

- Ở Đức, lập địa đƣợc hiểu là một phạm vi địa bàn nhất định với tất cả

những yếu tố ngoại cảnh ảnh hƣởng đến sự sinh tƣởng của cây cối.

W.Schwanecker (1971), trên cở sở thuyết lâm hình của Suchaev (1958) đã đƣa ra

khái niệm cụ thể về lập địa nhƣ sau [34], [85]:

* Các yếu tố tĩnh:

- Khí hậu.

- Địa hình

- Đất

Sinh thái cảnh

(lập địa theo

nghĩa hẹp) Sinh địa quần

thể tự nhiên

(lập địa theo

nghĩa rộng)

Sinh địa

quần thể

tác nhân * Các yếu tố động:

- Thế giới động vật

- Thế giới thực vật

- Thế giới sinh vật

Quần thể sinh vật

* Các yếu tố tác nhân: Xã hội con ngƣời

- Ở Mỹ, D.M Smith (1996) cho rằng lập địa là tổng thể hoàn cảnh của một

địa phƣơng và có ý nghĩa truyền thống [43]. Water (1925) cho rằng lập địa là tất

cả các yếu tố ngoại cảnh (khí hậu - thủy văn, đá mẹ - thổ nhƣỡng, sinh vật, con

ngƣời) thƣờng xuyên tác động đến sự sống của sinh vật [71].

Pogrebnhiac (Ucraina) đã phân chia lập địa làm cơ sở cho trồng rừng và

xác định các kiểu rừng dựa trên hai yếu tố chính là độ phì và độ ẩm của đất.

Trong khi đó Blaglovidop và Buadop (1958), Tretop (1981) thì nền lập địa ở

vùng Sankt-Peterburg lại đƣợc phân chia dựa vào các yếu tố: đá mẹ hình thành

đất, địa hình và chế độ thoát nƣớc. Tretop trong quá trình nghiên cứu còn bổ

8

sung thêm tiêu chuẩn phân chia lập địa là kiểu mùn vì ông cho rằng kiểu mùn

phản ánh quá trình hình thành và phát triển độ phì đất rừng [46],[48],[49], [61].

1.1.2 Hệ thống cấp phân vị lập địa lâm nghiệp

Mỗi quốc gia có điều kiện tự nhiên, trình độ khoa học kỹ thuật, mục đích

kinh doanh khác nhau nên đã xây dựng cho mình những hệ thống cấp phân vị lập

địa khác nhau để phục vụ cho việc phân loại và đánh giá lập địa, trong đó:

- Ở Đức, ngành lâm nghiệp đã đƣa ra một phƣơng pháp điều tra lập địa

tổng hợp phục vụ sản xuất lâm nghiệp, đã thống nhất phƣơng pháp nghiên cứu

phân kiểu lập địa và phƣơng pháp phân vùng lập địa. Tổng kết kinh nghiệm sử

dụng phƣơng pháp này; Friedler, Neber và Hunger (1982) đã đƣa ra bốn cấp

phân vị lập địa đồng thời so sánh với 4 cấp phân vị cảnh quan và 4 cấp phân vị

khí hậu, gồm: Cấp vùng sinh trƣởng tƣơng đƣơng với cấp đại cảnh quan và cấp

vùng khí hậu. Cấp khu sinh trƣởng tƣơng đƣơng với cấp cảnh quan và cấp khu

khí hậu. Cấp phạm vi bức khảm tƣơng đƣơng với cấp bộ phận cảnh quan và cấp

dạng đại khí hậu. Cấp dạng lập địa tƣơng đƣơng với cấp cảnh quan cơ sở và cấp

dạng khí hậu địa hình [34], [46], [49].

- Ở Liên Xô, Blaglovidop và Buadop (1959), Tretop (1981) khi phân chia

ĐKLĐ có đặc điểm thoát nƣớc kém ở (Sankt Peterburg) đã xác định hệ thống

phân loại lập địa theo 3 cấp, gồm: (1) Nhóm lập địa dựa vào đặc điểm thoát nƣớc

để phân chia. (2) Nhóm phụ lập địa dựa vào điều kiện thoát nƣớc và đá mẹ hình

thành đất để phân chia. (3) Kiểu lập địa dựa vào cả đá mẹ hình thành đất, địa

hình và chế độ thoát nƣớc để phân chia. Pogrebnhiac (1968), cho rằng kiểu lập

địa bao gồm mọi khu đất có điều kiện đất đai giống nhau, dựa vào độ phì và độ

ẩm của đất đã phân lập đƣợc 24 kiểu lập địa. Tùy điều kiện cụ thể, một kiểu lập

địa còn có thể chia thành các kiểu phụ dựa vào sự khác nhau về độ pH hay thành

các biến chủng nếu khác nhau về đá lẫn, thành phần cơ giới [19], [52], [61].

- Ở Trung Quốc: Năm 1993, khi phân vùng lập địa phía Đông Bắc, Dƣơng

Kế Cảo đã xác lập hệ thống cấp phân vị lập địa có 6 cấp, gồm: Khu lập địa. Á

khu lập địa phân chia theo sự khác nhau về khí hậu. Tiểu khu lập địa phân chia

9

theo đia mạo và nham thạch. Nhóm kiểu lập địa phân chia theo độ cao và độ dốc.

Kiểu lập địa phân chia theo độ dày tầng đất, thành phần cơ giới. Kiểu phụ lập địa

phân chia theo độ dày tầng đất mặt, độ pH và mực nƣớc ngầm [46], [48], [49].

- Ở Canada, Hill (1975) đã sáng lập ra hệ thống phân loại địa lý và đƣa ra

thuật ngữ mới với tên gọi là "Tổng địa lý" gồm 4 cấp: vùng lập địa, kiểu đất, kiểu

lập địa địa lý tự nhiên, kiểu điều kiện lập địa [43].

1.1.3 Các phƣơng pháp phân loại lập địa lâm nghiệp

a) Khái niệm về kiểu lập địa

Theo Pogrepnhiac (1968), kiểu lập địa bao gồm mọi khu đất có điều kiện

đất đai giống nhau kể cả nơi có rừng và nơi không có rừng; khi điều kiện đất đai

giống nhau sẽ dẫn tới khả năng xuất hiện các quần xã thực vật giống nhau. Theo

Xucasov (1957), kiểu lập địa là tập hợp những khoảnh đất có khả năng xuất hiện

những thảm thực vật giống nhau, nghĩa là có phức hệ giống nhau về các yếu tố

đất đai có ảnh hƣởng đến thực vật [19], [50], [48], [49].

b) Các phương pháp phân loại lập địa lâm nghiệp

Tổng quát chung về phân loại lập địa thì ở các nƣớc thƣờng sử dụng một

số phƣơng pháp sau:

- Áp dụng chỉ tiêu sinh trƣởng của cây rừng để đánh giá và phân loại lập

địa: Các chỉ tiêu sinh trƣởng đƣợc áp dụng chủ yếu là cấp lập địa, chỉ số lập địa

và sai số sinh trƣởng, trong đó: (1) Cấp lập địa là một chỉ tiêu đo lƣờng tƣơng

đối, phản ánh sức sản xuất của đất rừng, thƣờng đƣợc xác định bởi tƣơng quan

giữa chiều cao bình quân và cấp tuổi, để từ đó chia ra các loại lập địa. Phƣơng

pháp này đƣợc áp dụng ở Liên Xô từ năm 1950. (2) Chỉ số lập địa, ngƣời ta cho

rằng độ cao ƣu thế của một loài cây ở một tuổi chuẩn có quan hệ với sức sản xuất

của lập địa mật thiết hơn so với độ cao bình quân. Đồng thời cũng chịu ảnh

hƣởng của mật độ và tổ thành loài cây nhỏ nhất. Phƣơng pháp này đƣợc Trung

Quốc, Mỹ, Anh ứng dụng từ năm 1970 [43]. Sajjaduzzaman và cộng sự (2005)

áp dụng tại Bangladesh để phân loại lập địa cho rừng Tếch [96]. (3) Sai số sinh

10

trƣởng đƣợc lựa chọn để nghiên cứu chất lƣợng lập địa ở thời kỳ sinh trƣởng của

rừng non. Phƣơng pháp này thƣờng đƣợc áp dụng tạm thời.

- Ứng dụng đặc trƣng của tổ thành, cấu trúc thực vật rừng: tổ thành, cấu

trúc, sinh trƣởng của cây rừng có quan hệ mật thiết với ĐKLĐ. Ở Đức (1946) và

ở Mỹ (1952) đã dùng nhóm loài sinh thái để biểu thị đặc trƣng lập địa và đƣa ra

hệ thống phân loại lập địa. Một số tác giả cho rằng ở nhƣng nơi sự tác động của

con ngƣời tƣơng đối ít nên dùng thực bì để biểu thị đặc điểm lập địa thì hiệu quả

hơn [43]. Ở Đài Loan, Chyi-Ty L và cộng sự (2004) đã phân loại lập địa cho một

vùng đồi núi rộng dựa trên bản đồ sinh thái và dữ liệu địa mạo sẵn có [88].

- Áp dụng nhân tố hoàn cảnh: Phƣơng pháp này thƣờng sử dụng những

nhân tố hoàn cảnh vật lý có tính ổn định, có quan hệ mật thiết với sinh trƣởng

của cây rừng để phân chia lập địa, nhƣ: (1) Khí hậu là căn cứ để chia ra các vùng

lập địa, đai lập địa và khu lập địa để làm đơn vị phân chia trong hệ thống phân

loại lập địa. Cùng một vùng khí hậu thì điều kiện đại khí hậu giống nhau, sự khác

nhau về tiểu khí hậu là do địa hình và đất khác nhau. (2) Địa hình là một trong

những căn cứ để phân loại lập địa. Trong điều kiện khí hậu và đất tƣơng đối đồng

nhất và địa hình phức tạp thì địa hình chiếm một địa vị rất quan trọng trong phân

loại lập địa. Smalle (1979) đã căn cứ vào địa mạo để phân chia đơn vị lập địa tại

vùng cao nguyên Comberland của Mỹ. Tuy nhiên mỗi đơn nguyên còn phải mô

tả độ phì của đất, cây chỉ thị và chỉ số lập địa của một số loài cây chủ yếu.

Phƣơng pháp này không phù hợp với những nơi có điều kiện địa hình đơn giản

và bằng phẳng. (3) Trong điều kiện khí hậu tƣơng đối đồng đều thì nhân tố đất là

căn cứ quan trọng để phân chia lập địa. Các học giả Nhật bản đã áp dụng hệ

thống phân loại đất của Mỹ, của UNESCO và phƣơng pháp nghiên cứu mối qua

hệ giữa đất và lập địa để tiến hành phân loại đất và lập địa ở các bờ sông của

Philippines [43].

- Áp dụng phƣơng pháp tổng hợp đa nhân tố: Phƣơng pháp này đƣợc áp

dụng rộng rãi bằng cách lấy chỉ số lập địa là một hàm số và các nhân tố lập địa

làm biến số và xây dựng một hàm hồi quy đa nhân tố để tiến hành đánh giá và

11

phân loại lập địa. Ở các nƣớc Đức, Canada và Trung Quốc đã vận dụng phƣơng

pháp này để phân loại lập địa [43]. Nghiên cứu quan hệ giữa đặc điểm đất đai với

cây rừng để định ra điều kiện lập địa [24].

1.1.4 Thảm thực vật và kiểu rừng

- Trochain (1954) cho rằng kiểu thảm thực vật là tập thể cây cỏ lớn đem

lại một hình dạng đặc biệt cho cảnh quan do sự tập hợp của những cây cỏ khác

loài nhƣng cùng chung một dạng sống ƣu thế [19].

- Theo Môrôdôp (1904) thì kiểu rừng là một tập hợp các lâm phần có sự

đồng nhất về điều kiện mọc hoặc điều kiện đất đai. Khi phân loại các kiểu rừng

phải đặt chúng theo các vùng địa lý. Các kiểu rừng đƣợc phân ra hai nhóm, gồm:

(1) Nhóm kiểu rừng cơ bản là những lâm phần đƣợc xuất hiện do kết quả tiến hóa

lâu dài của đất và thảm thực vật rừng. (2) Nhóm kiểu thứ sinh là những lâm phần

đƣợc xuất hiện dƣới ảnh hƣởng của các nhân tố bên ngoài ở nơi mọc của kiểu

rừng cơ bản với sự thay đổi thành phần loài cây. Theo Pogrepnhiac (1950) thì

kiểu rừng là một đơn vị thống nhất giữa các loài thực vật, động vật và hoàn cảnh

xung quanh. Theo Alêcxêep (1950) thì kiểu rừng là một hợp phần của các

khoảnh rừng có sự đồng nhất về đặc điểm lâm học, khả năng áp dụng các biện

pháp phục hồi và tái sinh rừng [43].

1.1.5 Sinh trƣởng và mô hình toán học trong sinh thái rừng

Khi nghiên cứu về suất sinh trƣởng ở các giai đoạn khác nhau trong quá

trình phát triển ở rừng mƣa nhiệt đới, Richards cho rằng "Suất sinh trƣởng của

một cây gỗ trong mọi giai đoạn phát triển của nó đều do hai nhóm nhân tố quyết

định là điều kiện hoàn cảnh và tính di truyền. Tính di truyền biến đổi từ loài cây

này sang loài cây khác" [57].

Theo K.J. Walter, ứng dụng phân tích hệ thống đối với sinh thái học đƣợc

biết dƣới tên gọi hệ sinh thái và đã trở thành một môn khoa học. Mọi hệ toán học

trong sinh thái đƣợc gọi là mô hình, vì nó là hình ảnh không đầy đủ và trừu tƣợng

của thế giới thực tại. Mục đích của các mô hình toán học đƣợc xây dựng là để dự

12

đoán sự thay đổi của hệ sinh thái. Các mô hình sinh thái thƣờng phức tạp nên

phải đƣợc nghiên cứu chủ yếu nhờ vào sự mô hình hóa bằng máy tính [18].

Mô hình hồi quy tuyến tính: Một sự mô tả về mối quan hệ giữa hai biến x

và y mà không thể xác định đƣợc bằng mối quan hệ hàm số y =f(x), có thể xác

định đƣợc bởi mô hình xác suất. Dạng tổng quát của một mô hình xác suất cho

phép y lớn hơn hoặc nhỏ hơn hàm f(x) một độ lệch tự do e nào đó. Phƣơng trình

mô hình có dạng y =f(x) +e [91]. Nếu một phƣơng pháp nghiên cứu yêu cầu một

mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến thì cần thiết phải chuyển dạng một trong hai

hoặc cả biến để thỏa mãn yêu cầu này [87]. Kiểu mô hình đƣợc mô tả dƣới dạng

biểu thức toán học thƣờng đƣợc sử dụng nhiều nhất trên máy tính, nó đƣợc phát

triển để diễn tả đúng đắn về sinh vật và ứng dụng trong sinh thái học [93].

Để xây dựng các mô hình hồi quy đa biến, các nhà khoa học lâm nghiệp

trên thế giới đã thử nghiệm rất nhiều dạng phƣơng trình toán học và qua đó đã đề

xuất một số hàm tƣơng đối đặc trƣng để mô tả quy luật về sinh trƣởng và sản

lƣợng rừng cho một số loại rừng cụ thể. Trong đó, đối với rừng trồng thuần loài

ngƣời ta thƣờng sử dụng những hàm: (1) Hàm Thomasius (1978) có dạng:

y=a0(1-e

-bt), trong đó: y là chỉ tiêu sinh trƣởng, a0 = ymax là chỉ tiêu sinh trƣởng

lớn nhất, e là cơ số Neper, b là tham số phƣơng trình phụ thuộc vào loài cây, t là

tuổi rừng. (2) Hàm Michailov có dạng: y=a.e-b/t

, trong đó: y là chỉ tiêu sinh

trƣởng, a và b là tham số của phƣơng trình phụ thuộc vào loài cây, t là tuổi rừng.

(3) Hàm Wenk có dạng: log(lm) = a0 + a1logt + a2loghg + a3logG +a4log2G, trong

đó: lm là tăng trƣởng về trữ lƣợng rừng, t là tuổi rừng, hg là chiều cao bình quân

của cây rừng theo cây bình quân tiết diện ngang, G là tổng tiết diện ngang của

rừng [73].

1.1.6 Đánh giá lập địa lâm nghiệp

- Trên phạm vi toàn cầu thì phƣơng pháp đánh giá đất của FAO đƣợc áp

dụng khá phổ biến. Ban đầu phƣơng pháp này, đƣợc áp dụng ở các nƣớc Tây Âu,

đến năm 1984 đƣợc tổ chức FAO thừa nhận và đề xuất áp dụng chung trên toàn

thế giới [61].

13

- Cộng hòa Dân chủ Đức và các nƣớc thuộc Liên Xô, phƣơng pháp đánh

giá đất dựa trên cơ sở lập địa đƣợc áp dụng khá phổ biến. Đại diện cho cách làm

này có Krauss (1935, 1954), Kopp (1965, 1969), W. Schwaneeke (1965, 1974),

Pogrebnhiac (1950), Trectop (1977, 1981). Theo phƣơng pháp này thì đánh giá

lập địa là nghiên cứu mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên với nhau, giữa

các thành phần tự nhiên với cây trồng trong một khoảng không gian nhất định và

đƣợc cụ thể hóa lên bản đồ [46], [61].

- Ở Liên xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa, phƣơng pháp phân hạng đất đai

đƣợc áp dụng khá phổ biến. Phƣơng pháp này áp dụng chủ yếu cho cây trồng

nông nghiệp. Bản chất của phƣơng pháp này là tìm mối quan hệ giữa đặc điểm,

tính chất đất đai với năng suất cây trồng để phân hạng đất thành các cấp khác

nhau ứng với các loại cây trồng khác nhau [40], [61].

- Ở Mỹ: (1) Phƣơng pháp phân chia cấp đất đã đƣợc Williams (1986) áp

dụng tại bang Maine đối với cây Vân sam (Picea abies) và cây Linh sam

(Pseudotsuga menziesii), theo đó lập địa của những lâm phần này đƣợc phân

thành 5 cấp [96]. (2) Lấy năng suất cây trồng trong nhiều năm làm tiêu chuẩn và

phân hạng đất đai cho từng cây trồng cụ thể, trong đó chọn cây lúa mì làm đối

tƣợng chính [30].

- Ơ Bangladesh phƣơng pháp phân chia cấp đất cũng đã đƣợc

Sajjaduzzaman (2005) áp dụng đối với rừng Tếch dƣới 40 tuổi, theo đó lập địa

đƣợc phân thành 02 cấp [97].

1.2 Ở VIỆT NAM

1.2.1 Lập địa và yếu tố cấu thành lập địa lâm nghiệp

1.2.1.1 Khái niệm lập địa lâm nghiệp

- Lập địa là nơi sống của một loài hay tập hợp loài cây dƣới ảnh hƣởng

của tất cả các yếu tố ngoại cảnh tác động lên chúng [4].

- Lập địa là nơi sinh sống của sinh vật, hay một tập hợp các nhân tố sinh

thái, ấn định sự tồn tại của các quần xã sinh vật [71].

14

- Lập địa là một phạm vi lãnh thổ nhất định với tất cả những yếu tố của

ngoại cảnh ảnh hƣởng tới sinh trƣởng của cây cối. Lập địa theo nghĩa hẹp bao

gồm 3 thành phần: khí hậu, địa hình, thổ nhƣỡng và theo nghĩa rộng bao gồm 4

thành phần: khí hậu, địa hình, thổ nhƣỡng và thế giới động thực vật. Đơn vị cơ

bản trong phân loại lập địa là dạng lập địa và nhóm dạng lập địa, trong đó: (1)

Dạng lập địa là tập hợp tất cả những lập địa riêng lẻ có các yếu tố cấu thành dạng

lập địa đƣợc xem là đồng nhất, là đơn vị cơ bản, cuối cùng của hệ thống phân vị

để đánh giá lập địa. (2) Nhóm dạng lập địa là tập hợp các dạng lập địa có độ phì

tổng quát và hƣớng sử dụng tƣơng tự nhau, có quan hệ gần gủi về mặt sinh thái,

có cùng biện pháp kinh doanh [46], [48], [49], [61], [85].

1.2.1.2 Yếu tố và phân cấp yếu tố cấu thành lập địa lâm nghiệp

Schwanecker (1971 - 1984) và ctv đã vận dụng phƣơng pháp điều tra lập

địa tổng hợp kiểu Đức để xây dựng và ban hành Quy trình tạm thời về điều tra

lập địa lâm nghiệp phục vụ cho thiết kế trồng rừng ở miền Bắc. Tại Quy trình

này, Schwanecker và ctv đã phân loại lập địa dựa vào các yếu tố: Nhiệt độ bình

quân năm, tổng nhiệt độ trên 20oC, số tháng khô, lƣợng mƣa bình quân năm, địa

hình và đá mẹ tạo đất, dạng địa thế, dạng đất, dạng trung khí hậu địa hình, dạng

trạng thái thay cho dạng mùn [34], [49].

Khi đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp và hoàn thiện phƣơng

pháp điều tra lập địa từ năm 1991 - 1995, Đỗ Đình Sâm và ctv đã xây dựng hệ

thống các yếu tố và phân cấp chỉ tiêu cho mỗi yếu tố để phân chia và đánh giá lập

địa cho đất đồi núi, đất cát ven biển, đất ngập mặn và đất chua phèn, trong đó:

* Đối với vùng đất đối núi: Dựa trên đặc điểm đất vùng đồi núi, 4 yếu tố

đã đƣợc tác giả lựa chọn, gồm: độ dốc (S), độ dày tầng đất (D), hàm lƣợng mùn

(OM) và thành phần cơ giới (T), trong đó: (1) S đƣợc phân làm 4 cấp (S1 < 15o

,

15 < S2 ≤ 25o

, 25 < S3 ≤ 35o

, S4 > 35o

). (2) D đƣợc phân làm 3 cấp (D1 > 100

cm, 50 < D2 ≤ 100 cm, D3 < 50 cm). (3) OM đƣợc phân 4 cấp (rất giàu, giàu,

trung bình, nghèo). (4) T đƣợc phân làm 3 cấp (thịt, sét, cát) [6], [60].

15

* Đối với vùng đất ngập mặn: Trên cơ cở mối quan hệ giữa đất, thủy triều,

địa mạo với sinh trƣởng cây trồng, tác giả đã lựa chọn 4 yếu tố, gồm: loại đất và

thành phần cơ giới, độ thành thục của đất, hàm lƣợng hữu cơ, chế độ ngập triều

[60], [61].

Để làm rõ thêm về đặc điểm đất đai liên quan đến sử dụng đất cho 7 vùng

kinh tế lâm nghiệp thuộc vùng đối núi tác giả và cộng sự đã xây dựng hệ thống

đơn vị đất đai cho mỗi vùng kinh tế, trên cơ sở lựa chọn 5 yếu tố: độ cao, nhóm

hay loại đất chính, độ dốc, độ dày tầng đất, lƣợng mƣa. Tuy nhiên mỗi yếu tố

đƣợc phân theo các cấp khác nhau tùy đặc điểm từng vùng, trong đó:

* Đối với vùng Đông Nam Bộ: Độ cao đƣợc phân làm 3 cấp (H1 ≤ 100

m), 100 < H2 ≤ 300 m, H3: > 300 m). Nhóm đất và loại đất đƣợc phân làm 11

loại. Độ dốc đƣợc phân làm 3 cấp (S1: < 15o

, 15 < S2 ≤ 25o

, S3 > 25o

). Độ dày

tầng đất (D1 > 100 cm, 50 < D2 ≤ 100 cm, D3 < 50 cm). Lƣợng mƣa đƣợc phân

thành 3 cấp (R1 > 2000 mm, 1600 < R2 ≤ 2000 mm, R3 < 1600 mm) [60].

* Đối với vùng Tây nguyên: Độ cao đƣợc phân làm 4 cấp (H1 ≤ 300 m,

300 < H2 ≤ 500 m, 500 < H3 ≤ 1000 m, H4 > 1000 m). Nhóm đất và loại đất

đƣợc phân làm 11 loại. Độ dốc đƣợc phân làm 3 cấp (S1 < 15o

, 15 < S2 ≤ 25o

, S3

> 25o

). Độ dày tầng đất (D1 > 100 cm, 50 < D2 ≤ 100 cm, D3 < 50 cm). Lƣợng

mƣa đƣợc phân thành 4 cấp (R1 > 2400 mm, 2000 < R2 ≤ 2400 mm, 1600 < R3

≤ 2000 mm, R4 < 1600 mm) [60].

Đỗ Đình Sâm (1990), trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm sinh khí hậu Việt

Nam, đặc biệt là chế độ khô hạn mùa khô và chế độ thoát nƣớc đã phân chia

đƣợc 10 nhóm lập địa ở Việt Nam [46], [54], [61].

Để đáp ứng đƣợc nhu cầu quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp một cách có hệ

thống, hiệu quả, dễ vận dụng cho các địa phƣơng thì Tổng cục Lâm nghiệp và

Ngô Đình Quế đã xây dựng hệ thống phân chia dạng đất đai (lập địa cấp 2) và

dạng lập địa (lập địa cấp 1) nhƣ sau:

* Theo Tổng cục Lâm nghiệp, thì các yếu tố và phân cấp các yếu tố để

phân chia dạng lập địa, gồm: lƣợng mƣa (R1 ≤ 1500, 1500 < R2 ≤ 2500, R3 >

16

2500 mm). Độ cao tuyệt đối (đối với miền Bắc, H1 ≤ 300 m, 300 < H2 ≤ 700 m,

700 < H3 ≤ 1000 m, H4 > 1000 m; đối với miền Nam, H1 ≤ 500 m, 500 < H2 ≤

1000 m, 1000 < H3 ≤ 1500 m, H4 > 1500 m). Loại đất và nhóm đất (có 6 loại và

nhóm loại). Độ dốc (S1 ≤ 15o

, 15 < S2≤ 25o

, 25 < S2≤ 35o

, S4 > 35o

). Độ dày

tầng đất (D1 ≤ 30 cm, 30 < D2≤ 50 cm, 50 < D3 ≤ 100 cm, D4 > 100 cm,). Vị

trí địa hình có chân, sƣờn, đỉnh. Thảm thực vật có 5 loại có rừng và 2 loại không

có rừng.

* Theo Ngô Đình Quế (1996), thì các yếu tố đƣợc lựa chọn để phân chia

dạng lập địa, gồm: đá mẹ và loại đất, độ dày tầng đất, độ dốc, thảm thực vật.

Việc phân cấp các yếu tố thì phải căn cứ vào điều kiện thực tế của từng khu vực

để phân chia cho phù hợp với thực tế.

Nhƣ vậy, phải tùy vào điều kiện tự nhiên, tầm quy hoạch sử dụng đất,

định hƣớng sử dụng đất, mục tiêu kinh doanh, khả năng thu thập số liệu của mỗi

khu vực cụ thể để xác định các yếu tố và phân cấp các yếu tố phân loại lập địa

cho phù hợp, đơn giản và dễ vận dụng [40], [47], [49].

1.2.2 Vai trò của các yếu tố cấu thành lập địa đối với thực vật

Dựa trên học thuyết "Sinh vật địa lý quần thể" của Xucasov V.N và học

thuyết "Hệ sinh thái" của Tansley A.G, Thái Văn Trừng đã xây dựng luận điểm

"Sinh thái phát sinh quần thể trong thảm thực vật". Vai trò của các nhóm nhân tố

sinh thái trong phát sinh quần thể thực vật là khác nhau [82].

* Nhóm địa lý - địa hình: Gồm các yếu tố: độ vĩ, độ kinh, độ lục địa, độ

cao, hƣớng phơi và độ dốc; là nhóm đƣợc xếp cao nhất trong thứ bậc của các

nhóm nhân tố phát sinh; có tác dụng chi phối, ảnh hƣởng đến các nhóm nhân tố

khác và phân bố của các nhóm quần thể [82]. Vai trò của địa hình và địa thế còn

đƣợc thể hiện thông qua việc cải biến khí hậu và đất đã gián tiếp ảnh hƣởng đến

sinh trƣởng, phân bố, hình thái và cấu trúc của các quần thể thực vật [71].

Humboldt (1817) nhận định rằng các đai thực vật kế tiếp nhau theo độ cao đều

tƣơng ứng với các đai thực vật phân bố theo độ vĩ từ xích đạo đến hai cực [59].

17

* Nhóm nhân tố khí hậu - thủy văn: Đây là nhóm nhân tố chủ đạo quyết

định hình thái và cấu trúc của các kiểm thảm thực vật, quyết định cái "Khung

cảnh" của thảm thực vật còn thành phần loài cây có thể rất khác nhau từ vùng

này sang vùng khác và phụ thuộc nhiều vào những yếu tố sinh thái khác. [82].

Trong các yếu tố khí hậu thì: Lƣợng mƣa đem lại ẩm độ cho sinh trƣởng của

thảm thực vật, ảnh hƣởng đến sự phân định ranh giới của các thảm thực vật.

Nhiệt độ có ý nghĩa định đoạt sự phân bố của thảm thực vật bên trong rừng mƣa

[27], [71]. Ánh sáng, theo Bếch sơ, thì "Ánh sáng là chiếc đòn bẩy mà nhà lâm

học dùng để điều khiển sự sống của rừng theo hƣớng có lợi về kinh tế [19].

* Nhóm nhân tố đá mẹ - thổ nhƣỡng: Những kiểu thảm thực vật địa đới

phải đƣợc hình thành trên những kiểu đất địa đới hoàn toàn thành thục. Nếu quá

trình địa đới phát sinh thổ nhƣỡng không hoàn chỉnh sẽ hình thành đất phi địa

đới. Những kiểu thảm thực vật hình thành trên đất phi địa đới là những kiểu phụ

thổ nhƣỡng của thảm thực vật [82]. Đất là nhân tố sinh thái hết sức quan trọng có

ảnh hƣởng sâu sắc thành phần loài, năng suất, cấu trúc và tính ổn định của thảm

thực vật rừng mƣa [19], [43], [71]. Các nhân tố thổ nhƣỡng có ảnh hƣởng rõ rệt

đến thảm thực vật, quyết định tình hình phân bố các quần hệ rừng mƣa [58].

* Nhóm nhân tố khu hệ thực vật: Trong nhiều trƣờng hợp, dƣới điều kiện

khí hậu, đất đai giống nhau nhƣng thành phần loài cây nhiều khi lại khác hẵn

nhau trong cùng một kiểu thảm thực vật là do nhóm khu hệ thực vật đã hình

thành nên các kiểu phụ miền thực vật [82]. Thảm thực vật có ảnh hƣởng đến các

yếu tố cấu thành lập địa khác, nhƣ: tham gia vào quá trình hình thành đất, làm

biến đổi tiểu khí hậu [75]. Thảm thực bì phản ánh rõ nhất điều kiện lập địa, là căn

cứ quan trọng để phân loại và đánh giá điều kiện lập địa [51].

* Nhóm nhân tố sinh vật và hoạt động của con ngƣời: Do những tác động

của con ngƣời đã phát sinh ra các quần thể thứ sinh thƣờng có hình thái, cấu trúc

và thành phần loài khác hẵn với quần thể nguyên sinh nên đƣợc gọi là kiểu phụ

tác nhân [38], [82]. Trong nhóm nhân tố sinh vật, nhất là sâu bệnh có thể làm

phát sinh những loại hình quần thể đặc biệt nên gọi là kiểu phụ sinh vật [82].

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!