Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu một số thông số huyết động và chức năng tim bằng siêu âm Doppler ở bệnh nhân phẫu thuật thay van hai lá Sorin Bicarbon
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
VŨ QUỲNH NGA
NGHI£N CøU MéT Sè TH¤NG Sè HUYÕT §éNG Vµ CHøC N¡NG TIM
b»NG SI£U ¢M – DOPPLER ë BÖNH NH¢N PHÉU THUËT
THAY VAN HAI L¸ SORIN BICARBON
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Hà Nội – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
VŨ QUỲNH NGA
NGHI£N CøU MéT Sè TH¤NG Sè HUYÕT §éNG Vµ CHøC N¡NG TIM
B»ng SI£U ¢M – DOPPLER ë BÖNH NH¢N PHÉU THUËT
THAY VAN HAI L¸ SORIN BICARBON
Chuyên ngành : Nội - Tim mạch
Mã số : 62.72.20.141
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học
GS.TS. NGUYỄN LÂN VIỆT
Hà Nội – 2013
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật thay van hai lá là giải pháp cuối cùng trong điều trị các bệnh
van hai lá khi van tổn thương quá nặng, không cho phép nong hoặc phẫu thuật
sửa van hai lá.
Năm 1960, lần đầu tiên Starr và Edward ghép thành công van cơ học
dạng “van bi và lồng” vào vị trí van hai lá. Từ đó đến nay, kỹ thuật thay van
tim cũng như công nghệ chế tạo các loại van nhân tạo không ngừng được cải
tiến và số lượng bệnh nhân mang van nhân tạo ngày càng tăng.
Hàng năm, ở Pháp có hơn 10.000 bệnh nhân và ở Mỹ có hơn 60.000
bệnh nhân được thay van tim nhân tạo [37], [51], [57]. Ở Việt Nam, phẫu
thuật thay van tim mới được tiến hành khoảng hơn 10 năm gần đây, nhưng số
lượng bệnh nhân được phẫu thuật thay van ngày càng tăng. Hiện nay, mỗi
tháng tại bệnh viện Việt Đức, bệnh viện Bạch mai và bệnh viện Tim Hà nội
có khoảng 100 ca phẫu thuật thay van nhân tạo, trong đó có gần một nửa là
phẫu thuật thay van hai lá đơn thuần.
Thay van tim là một phương pháp điều trị hiệu quả, giúp cải thiện triệu
chứng cũng như kéo dài tuổi thọ của bệnh nhân. Có nhiều loại van nhân tạo
đã được sử dụng như van cơ học hoặc van sinh học, trong đó van Sorin
Bicarbon là một loại van cơ học hai cánh thế hệ hai có nhiều ưu điểm. Tuy
nhiên, dù van nhân tạo đã được cải tiến tốt đến đâu, chưa có một van nhân tạo
nào có được những đặc điểm hoàn chỉnh như van tự nhiên. Các bệnh nhân
mang van nhân tạo có nguy cơ mắc các biến chứng: huyết khối gây kẹt van,
chảy máu, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, tan máu, thoái hóa van… Vì vậy,
các bệnh nhân này cần được theo dõi định kỳ, lâu dài nhằm phát hiện sớm các
biến chứng có thể xảy ra để xử lý kịp thời. Khám lâm sàng, chụp X quang tim
phổi và điện tâm đồ là các thăm dò thiết yếu khi theo dõi các bệnh nhân có
van tim nhân tạo, nhưng chúng không cho phép đánh giá chính xác hoạt động
bình thường cũng như bất thường của van. Hiện nay, siêu âm Doppler tim
được coi là thăm dò chuẩn trong theo dõi các bệnh nhân mang van nhân tạo.
2
Nó cung cấp các thông tin chính xác về các thông số huyết động cũng như
chức năng thất trái ở những tuần đầu sau mổ, làm cơ sở cho để đối chiếu kết
quả của những lần khám sau. Siêu âm Doppler tim còn giúp kiểm tra định kỳ,
thường xuyên hoạt động của van nhân tạo, cũng như phát hiện sớm các biến
chứng trên van như sùi, kẹt van…để sử trí kịp thời.
Ở nước ta, trước đây đã có một vài nghiên cứu đánh giá hoạt động bình
thường của van nhân tạo bằng siêu âm Doppler tim, nhưng chủ yếu là siêu âm
tim qua thành ngực. Tuy nhiên, siêu âm tim qua thành ngực có những hạn chế
nhất định trong việc đánh giá chính xác hoạt động của van nhân tạo, do tính
chất cản âm của van, nhất là đối với van cơ học. Hơn nữa, ở các bệnh nhân có
thành ngực dày hoặc có bệnh phổi mãn tính thì hình ảnh siêu âm thường
không rõ nữa.
Phương pháp siêu âm tim với đầu dò qua đường thực quản ra đời từ năm
1971 đã khắc phục được những nhược điểm của siêu âm tim qua thành ngực và
giúp ích nhiều cho thầy thuốc trong việc đánh giá các tổn thương tim. Đã có
nhiều báo cáo của nước ngoài sử dụng siêu âm tim qua thực quản để đánh giá,
theo dõi hoạt động của van nhân tạo. Mặc dù vậy, cho đến nay, chúng tôi chưa
thấy có nghiên cứu chi tiết và toàn diện nào về sử dụng siêu âm tim qua thực
quản trong theo dõi các bệnh nhân mang van tim nhân tạo, trong đó có van cơ
học Sorin Bicarbon là một loại van cơ học hai cánh được sử dụng khá rộng rãi
tại Việt Nam. Đây cũng là loại van được sử dụng chủ yếu trong phẫu thuật thay
van tại bệnh viện Tim Hà nội. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu
một số thông số huyết động và chức năng tim bằng siêu âm Doppler ở bệnh
nhân phẫu thuật thay van hai lá Sorin Bicarbon” nhằm 2 mục tiêu sau:
1. Nghiên cứu các thay đổi về huyết động và chức năng tim sau phẫu
thuật thay van hai lá bằng van Sorin Bicarbon.
2. Đánh giá hoạt động bình thường và những biến chứng có thể gặp
của van hai lá nhân tạo Sorin Bicarbon bằng siêu âm tim qua
thành ngực và siêu âm tim qua thực quản.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương về bệnh lý van hai lá
1.1.1. Tỷ lệ mắc bệnh van hai lá ở Việt nam
Bệnh van hai lá là bệnh van tim thường gặp nhất ở nước ta, có thể là hẹp
van hai lá đơn thuần, hở van hai lá đơn thuần, hoặc phối hợp hẹp và hở van.
Theo nghiên cứu của Trần Đỗ Trinh và cộng sự tại Viện Tim mạch quốc gia
từ năm 1984 đến năm 1989, các bệnh nhân có bệnh lý van hai lá chiếm tỷ lệ
cao nhất (66%) [24]. Theo thống kê của Viện Tim mạch quốc gia năm 1996,
trong các bệnh lý tim mạch thì hẹp hở van hai lá đứng hàng đầu (21,4%), tiếp
theo là hở van hai lá (16%) …
1.1.2. Nguyên nhân và thay đổi sinh lý bệnh bệnh van hai lá
1.1.3.1. Hẹp van hai lá
a. Nguyên nhân
Nguyên nhân thường gặp nhất của HHL là hậu thấp. Nguyên nhân ít
gặp hơn là tổn thương bẩm sinh hoặc vôi hoá nặng của vòng van hai lá. Hiếm
gặp hơn nữa là một số bệnh tự miễn như lupus ban đỏ hệ thống, bệnh
carcinoid, huyết khối… [32], [34], [65], [149].
b. Thay đổi về huyết động
Diện tích lỗ van hai lá ở người lớn bình thường là từ 4 đến 6 cm2
và
VHL không gây cản trở dòng máu từ nhĩ trái xuống thất trái trong thì tâm
trương. Các thay đổi về áp lực và lưu lượng tim sẽ xuất hiện khi diện tích
VHL giảm xuống dưới 2 cm2
. Sự thay đổi này càng rõ rệt khi hẹp van hai lá
khít (diện tích van < 1,5 cm2 hoặc 1 cm2
/m2
) [34], [149].
4
Áp lực trung bình nhĩ trái ở bệnh nhân hẹp van hai lá thường > 10mmHg
và có thể tới 15 - 20 mmHg khi van hẹp khít. Áp lực trong NT cao ở bệnh nhân
HHL sẽ làm tăng áp lực trong tĩnh mạch phổi và mao mạch phổi. Khi áp lực
trong mao mạch phổi vượt quá 25 mmHg sẽ có nguy cơ phù phổi. Tuy nhiên,
một vài bệnh nhân vẫn dung nạp tốt với áp lực tới 30 mmHg hoặc hơn, có thể do
giảm tính thấm của màng phế nang - mao mạch hoặc tăng tuần hoàn bạch mạch
của mô liên kết.
Tăng áp lực trong giường mạch phổi sẽ làm tăng áp lực ĐMP trung
bình để máu có thể lưu thông trong tiểu tuần hoàn. Nói chung, sự chênh lệch
giữa áp lực trung bình ĐMP và áp lực nhĩ trái khoảng 10 – 12 mmHg. Tuy
nhiên, sự tăng áp lực này là hoàn toàn thụ động và do tăng áp lực trong NT
(tăng áp sau mao mạch). Tuy nhiên, trong một số trường hợp, áp lực ĐMP
tăng rất nhiều, chênh lệch áp lực giữa ĐMP và mao mạch phổi vượt quá 15
mmHg, gây nên tăng áp ĐMP hỗn hợp, cả trước và sau mao mạch kèm tăng
sức cản ĐMP. Tăng áp ĐMP trước mao mạch có liên quan đến các tổn
thương tiểu động mạch, hậu quả của co các tiểu động mạch phản ứng với tăng
áp lực nhĩ trái và tĩnh mạch phổi [34], [65], [149].
c. Ảnh hưởng của hẹp van hai lá đến tim
Các thay đổi ở tâm thất
Ở các bệnh nhân có hẹp van hai lá đơn thuần, hạn chế dòng đổ đầy thất
trái làm cho kích thước thất trái cuối tâm trương bình thường hoặc nhỏ và áp
lực thất trái cuối tâm trương thấp. Cung lượng tim giảm do giảm đổ đầy thất
trái hơn là do giảm chức năng bơm của cơ tim [34]. Khi gắng sức, phân xuất
tống máu có thể tăng nhẹ. Tuy nhiên, nhịp tim nhanh sẽ làm thời gian tâm
trương ngắn lại và làm giảm đổ đầy thất trái, kết quả là thể tích cuối tâm
trương thất trái (tiền gánh) giảm. Do đó, thể tích tống máu và cung lượng tim
tăng ít hoặc thậm chí giảm [34], [65], [149].
5
Do áp lực động mạch phổi tăng, tâm thu của thất phải bị hạn chế tuy
trên lâm sàng chức năng tâm thu thất phải thường bình thường [65]. Về lâu
dài, tăng hậu tải thất phải sẽ dẫn đến giãn và tái cấu trúc TP, gây giãn vòng
VBL và gây hở VBL. Bản thân HoBL lại làm giãn và rối loạn chức năng TP
và làm HoBL nặng thêm nữa. TP giãn và suy làm tăng áp lực tâm trương TP,
đẩy vách liên thất về phía TT trong thì tâm trương, và do vậy lại càng gây hạn
chế đổ đầy TT, làm giảm cung lượng tim [34], [65], [120].
Các thay đổi ở tâm nhĩ
Do VHL bị hẹp, máu ứ lại trong nhĩ trái sẽ làm tăng áp lực nhĩ trái, dẫn
đến nhĩ trái giãn và phì đại. Các sợi cơ nhĩ sắp xếp lộn xộn làm vận tốc dẫn
truyền và thời gian khử cực không đồng nhất. Khử cực nhĩ sớm do tăng tính
tự động hoặc vòng vào lại có thể dẫn đến rung nhĩ, gặp ở 50% bệnh nhân hẹp
van hai lá đơn thuần hoặc kết hợp hở VHL.
Nhiều bệnh nhân HHL có tình trạng tăng đông trong nhĩ trái và thậm
chí hình thành các cục máu đông, do ứ máu tại nhĩ trái, giãn nhĩ trái và rung
nhĩ. Hình ảnh tăng đông trong nhĩ trái gặp ở hầu hết các bệnh nhân HHL có
rung nhĩ và khoảng một nửa các bệnh nhân có nhịp xoang [149].
1.1.3.2. Bệnh hở van hai lá
a. Nguyên nhân
Van hai lá đóng kín phụ thuộc vào sự tương tác phù hợp và hỗ trợ của
phức hợp van hai lá và tổ chức dưới van, bao gồm vòng van và lá van, dây
chằng, cơ nhú, nhĩ trái và thất trái. Rối loạn hoạt động của bất cứ một hoặc
vài thành phần của phức hợp này đều có thể dẫn đến HoHL. Các nguyên nhân
chủ yếu của hở van hai lá là bệnh tim thiếu máu cục bộ, thấp tim, thoái hóa
nhày, vôi hóa vòng van hai lá, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, bẩm sinh, xơ
hóa nội mạc, bệnh cơ tim giãn. Có thể gặp HoHL cấp trên lâm sàng, thường
6
do đứt dây chằng, cột cơ hoặc thủng lá van, hậu quả của bệnh cơ tim thiếu
máu cục bộ (nhồi máu cơ tim), viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn hoặc chấn
thương ngực [31], [34], [65], [143], [144].
Carpentier chia hở van hai lá thành 3 loại chính dựa trên vận động của
lá van và dây chằng (hình 1.1):
- Loại I (type I) lá van vận động bình thường, thường gặp trong bệnh cơ
tim giãn, bệnh tim thiếu máu cục bộ hoặc thủng van hai lá thứ phát do
viêm nội tâm mạc nhiễm trùng.
- Loại II (type II), lá van bị sa hoặc vận động quá, thường gặp do dây
chằng dài, đứt dây chằng hoặc cơ nhú do viêm nội tâm mạc nhiễm
trùng hoặc nhồi máu cơ tim.
- Loại III (type III) lá van bị hạn chế vận động. Type III còn được chia
thành 2 phân nhóm nhỏ: type IIIa khi lá van hạn chế vận động thì tâm
trương như trong thấp tim và IIIb khi lá van hạn chế vận động thì tâm
thu như trong bệnh tim thiếu máu cục bộ [65].
Hình 1.1. Phân loại hở van hai lá theo Carpentier
b.Các thay đổi về huyết động
Các thay đổi huyết động trong HoHL cấp khác HoHL mạn tính. Biểu
hiện lâm sàng của hở van hai lá cấp phụ thuộc khả năng giãn nở (compliance)
của nhĩ trái và giường mạch phổi. Nếu nhĩ trái giãn nở kém, hở van hai lá cấp
làm tăng đột ngột áp lực nhĩ trái và có thể gây phù phổi cấp. Ngược lại, trong
hở van hai lá mạn tính, các thay đổi bù trừ theo thời gian làm tăng khả năng
7
giãn nở của nhĩ trái và giường mạch phổi. Vì vậy, các dấu hiệu ứ máu mạch
phổi có thể không xuất hiện trong nhiều năm [65], [143], [144].
Trong HoHL, trở kháng của tống máu thất trái giảm do thất trái co bóp
sẽ tống máu vào ĐMC và vào cả nhĩ trái. Dòng hở van hai lá vào nhĩ trái làm
tăng áp lực nhĩ trái và làm giảm thể tích tống máu vào ĐMC. Áp lực nhĩ trái
tăng đáng kể trong thì tâm thu và có thể vẫn tăng vào cuối thì tâm trương
(chênh áp qua van # 5 – 10 mmHg) [65], [144].
c.Ảnh hưởng của hở van hai lá đến tim
Các thay đổi ở tâm thất
Trong HoHL, thất trái tống máu thuận lợi do tiền tải tăng, trong khi hậu
tải bình thường hoặc giảm. Đáp ứng cơ bản của thất trái với việc tăng tiền tải là
tăng thể tích tống máu, mặc dù thể tích máu bơm thực sự vào động mạch chủ
bình thường hoặc thấp hơn bình thường. Tiền tải thất trái cao lâu ngày sẽ gây
giãn và thay đổi hình dạng thất trái (thất trái có dạng hình cầu) [34], [65], [144].
Trong hở van hai lá mạn tính, khối lượng cơ thất trái tăng, mức độ phì đại
tương quan với mức giãn buồng thất, do đó tỷ lệ khối lượng cơ thất trái chia cho
thể tích cuối tâm trương thất trái vẫn trong giới hạn bình thường. Ngược lại, khi
hở van hai lá cấp, tỷ lệ khối lượng cơ thất trái chia cho thể tích cuối tâm trương
giảm, do buồng thất trái giãn cấp và thành thất trái lại trở nên mỏng đột ngột.
Sau pha bù trừ ban đầu, co cơ tâm thu thất trái giảm dần khi hở van
hai lá trở nên mạn tính. Tuy nhiên, do trở kháng thì tâm thu thấp, các chỉ số
đánh giá chức năng tâm thu thất trái trên lâm sàng như phân xuất tống máu
(EF) và phần trăm co ngắn sợi cơ (FS) vẫn bình thường trong khi đã có
giảm đáng kể chức năng tâm thu thất trái. Ở các bệnh nhân hở van hai lá
nặng, phân xuất tống máu thất trái 55 - 60% hoặc phần trăm co ngắn sợi cơ
dưới 28% cho thấy chức năng co cơ tim đã giảm đáng kể. Đường kính cuối
8
tâm thu hoặc thể tích cuối tâm thu thất trái ít phụ thuộc vào tiền tải hơn
phân xuất tống máu, và là một chỉ số khách quan hơn để đánh giá chức
năng tâm thu của thất trái [46], [65], [144].
Ở các bệnh nhân hở van hai lá, giảm chức năng co bóp của thất phải có
tiên lượng xấu hơn, và thường do tăng áp lực động mạch phổi. Các bệnh nhân
có chức năng tâm thu thất phải dưới 30% có tiên lượng không tốt [34], [65].
Các thay đổi ở tâm nhĩ
Dòng hở van hai lá vào nhĩ trái gây giãn dần nhĩ trái, tuy nhiên mức độ
giãn không tương ứng trực tiếp với mức độ nặng của hở van. Các bệnh nhân hở
van hai lá mạn tính có nhĩ trái giãn nhiều hơn so với các bệnh nhân hẹp van hai
lá. Ngược lại, việc hình thành huyết khối và tắc mạch hệ thống do huyết khối ít
xuất hiện hơn, do không có sự ứ máu trong nhĩ. Rung nhĩ cũng ít xuất hiện hơn
và không ảnh hưởng nhiều đến lâm sàng như trong hẹp van hai lá [34], [65].
Độ giãn nở (compliance) nhĩ trái là 1 thành phần quan trọng trong thay
đổi huyết động khi có hở van hai lá [65], [144]. Trong HoHL cấp, giãn nở của
nhĩ trái bình thường hoặc giảm. Nhĩ trái không giãn, nhưng áp lực trung bình
nhĩ trái tăng. Trong HoHL mạn tính, giãn nở nhĩ trái tăng và nhĩ trái giãn dần
nhưng áp lực nhĩ trái bình thường hoặc chỉ tăng nhẹ. Do vậy, áp lực động
mạch phổi và sức cản mạch phổi thường vẫn nằm trong giới hạn bình thường
hoặc chỉ tăng nhẹ. Tuy nhiên, giãn nhĩ trái có thể gây rung nhĩ và giảm cung
lượng tim [34], [65], [143], [144].
1.1.3.3. Bệnh hẹp hở van hai lá
a. Nguyên nhân
Trên lâm sàng có thể gặp bệnh nhân có kết hợp cả hẹp và hở van hai lá,
nhất là khi tổn thương VHL hậu thấp [34], [64], [65], [144]. Các nguyên nhân
khác có thể gặp là bẩm sinh, vôi hóa lớn của vòng van hai lá, u nhĩ trái, viêm
nội tâm mạc nhiễm trùng do nấm có sùi lớn trên van.
9
b. Các thay đổi về huyết động
Tùy theo mức độ hẹp và hở van mà có các bệnh cảnh khác nhau. Khi
diện tích van hai lá dưới 1,5 cm2
, hẹp van hai lá là ưu thế và sẽ quyết định
biểu hiện lâm sàng và thái độ điều trị. Khi hẹp van không nhiều, diện tích van
> 2 cm2
, hở van chiếm ưu thế, quá tải thể tích thất trái sẽ là bệnh cảnh lâm
sàng chính. Một số trường hợp van hẹp không quá khít (diện tích van 1,5 – 2
cm
2
), bản thân nó chưa gây cản trở đổ đầy thất trái nhiều nhưng do có dòng
hở hai lá đáng kể vào nhĩ trái, thể tích máu tăng trong nhĩ trái khi đi qua van
hai lá sẽ gây hẹp van có ý nghĩa về mặt huyết động [34], [65], [144].
Trên đường cong áp lực sẽ ghi được sóng v cao điển hình của HoHL.
Tăng áp lực mao mạch phổi quá 45 mmHg kèm theo áp lực chênh lệch lớn là
dấu hiệu chỉ điểm có HoHL kèm theo HHL. Đôi khi áp lực ĐMP cao tương tự
trong HHL nhưng kháng lực ĐMP lại không cao hơn tương ứng.
c. Các thay đổi ở tim
Bệnh sinh của bệnh van hai lá phụ thuộc mức độ hẹp van, thể tích dòng
hở van và các cơ chế để duy trì cung lượng tim. Cả hẹp và hở van hai lá đều
làm tăng áp lực nhĩ trái và làm giãn nhĩ trái. Nhĩ trái thường giãn nhiều hơn so
với khi hẹp van hai lá đơn thuần, có khi nhĩ trái khổng lồ. Tuy nhiên, do có hở
hai lá đáng kể nên tỷ lệ huyết khối nhĩ trái thường ít hơn. Tăng áp lực trong
nhĩ trái lâu ngày sẽ làm tăng áp lực động mạch phổi. Đôi khi, áp lực ĐMP có
thể tăng đến mức tương tự trong HHL nặng, nhưng sức cản ĐMP thường thấp
hơn. Mức độ giãn thất trái phụ thuộc mức độ dòng hở van [144].
10
1.1.3. Các phương pháp điều trị bệnh van hai lá [3], [29], [31], [32], [46], [51], [52]
1.1.2.1. Điều trị nội khoa
Chủ yếu là điều trị các biến chứng của bệnh: Suy tim, phù phổi cấp,
nhồi máu phổi, các rối loạn nhịp nhĩ (ngoại tâm thu nhĩ, rung nhĩ nhanh…),
tắc mạch (mạch não, mạch chi, mạch tạng), viêm nội tâm mạc nhiễm trùng…
Bệnh nhân nếu có tổn thương van hai lá do thấp tim và còn trong độ tuổi có
nguy cơ bị thấp tim tái phát phải được tiêm phòng thấp cấp II đều đặn. Các
bệnh nhân hở van hai lá hoặc hẹp hở van hai lá cần áp dụng các biện pháp
phòng viêm nội tâm mạc nhiễm trùng. Điều trị nội khoa chỉ là tạm thời, làm
giảm các triệu chứng.
1.1.2.2. Nong van qua da
a) Chỉ định: Hẹp van hai lá khít, van mềm mại và tổ chức dưới van bị tổn
thương mức độ nhẹ đến vừa, chưa bị vôi hóa.
b) Chống chỉ định: Khi có huyết khối trong nhĩ trái và tiểu nhĩ trái và/ hoặc
có các tổn thương van đáng kể khác kèm theo (hở van hai lá, hẹp hở van ĐMC).
c) Tiến hành: Đưa ống thông có bóng ở đầu qua đường tĩnh mạch đùi
vào nhĩ trái qua chỗ chọc vách liên nhĩ. Sau đó bóng sẽ được lái xuống thất
trái qua van hai lá. Bóng sẽ được bơm lên theo từng cỡ tăng dần để tách hai
mép của van hai lá.
1.1.2.3. Phẫu thuật
a) Mổ tách mép van trên tim kín
Chỉ định và chống chỉ định tương tự nong van hai lá qua da. Phẫu thuật
được thực hiện dưới gây mê nội khí quản với đường mở ngực bên (trái hoặc
phải). Sau đó phẫu thuật viên sẽ dùng một dụng cụ tách van qua đường mỏm
thất trái hoặc nong van bằng tay qua đường mở nhĩ trái.