Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Một Số Đặc Điểm Cấu Trúc Rừng Tại Bốn Huyện Vùng Cao Phía Bắc Tỉnh Hà Giang
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-------------------------------------------
Tô Đức Hiện
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC RỪNG
TẠI BỐN HUYỆN VÙNG CAO PHÍA BẮC
TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành: lâm học
Mã số : 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Trọng Bình
Hà Nội, 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là tài nguyên có khả năng tái tạo quý giá, rừng không những là cơ sở
của sự phát triển kinh tế mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng. Song nó
là một hệ sinh thái phức tạp bao gồm nhiều thành phần với các quy luật sắp xếp
khác nhau trong không gian và thời gian. Rừng tự nhiên ở nước ta hiện nay hầu hết
đều là rừng thứ sinh ở những mức độ thoái hoá khác nhau. Nguyên nhân chủ yếu là
do con người khai thác lạm dụng, đốt nương làm rẫy. Độ che phủ đã giảm từ 43%
năm 1943 xuống 28,4% năm 1990, làm tăng các ảnh hưởng bất lợi của môi trường
sống đối với con người như bão, lũ, hạn hán, ô nhiễm không khí. Theo công bố của
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tính đến năm 2009 diện tích rừng nước ta
khoảng 13,2 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha và rừng trồng là 2,7
triệu ha với độ che phủ chung của cả nước là 39,1% đất tự nhiên.
Bốn huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang gồm các huyện: Quản Bạ, Yên
Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Những năm qua, do việc khai thác và sử dụng quá
mức, công tác quản lý bảo vệ rừng kém hiệu quả dẫn đến diện tích có rừng bị giảm
sút nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu thống kê năm 2008
[12], diện tích đất có rừng khoảng 77.302 ha, chiếm 55 %, song chủ yếu là rừng thứ
sinh với chất lượng thấp. Những tác động của con người đã ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng tồn tại và phát triển của rừng, làm xáo trộn các quy luật cấu trúc và tái
sinh tự nhiên của rừng. Sự mất rừng đã kéo theo sự suy thoái về các nguồn tài
nguyên thiên nhiên khác, đặc biệt là nguồn tài nguyên nước. Do đặc điểm địa chất
Karst khả năng giữ nước kém, kèm theo hệ thống rừng bị suy giảm dẫn đến nơi đây
thường xuyên thiếu trầm trọng nước sinh hoạt, sản xuất... làm ảnh hưởng lớn tới
cuộc sống và phát triển kinh tế của các cộng đồng dân cư.
Trong những năm qua nhà nước đã có những chính sách khuyến khích phát
triển rừng như: giao khoán bảo vệ, hỗ trợ khoanh nuôi, bảo vệ, trồng rừng... Song
do bốn huyện vùng cao phía Bắc ngoài một phần diện tích thuộc huyện Yên Minh,
Quản Bạ, còn lại đa phần là rừng tự nhiên phát triển trên núi đá hoặc núi đất có tỷ lệ
đá lẫn cao... làm cho khả năng phục hồi rừng chậm... mặt khác do thiếu những
2
nghiên cứu cơ bản cấu trúc rừng, nên đa phần đều không dám tác động vào rừng
bằng bất kỳ biện pháp kỹ thuật nào hoặc nếu có thì hiệu quả của các biện pháp tác
động không cao; các giải pháp chính mới chỉ dừng lại ở việc khoanh nuôi phục hồi
tự nhiên, hiệu quả thấp, chưa có biện pháp kỹ thuật tác động tổng hợp nào mang
tính khoa học và tính thực tiễn.
Thực tiễn đã chứng minh rằng các giải pháp quản lý, phát triển rừng chỉ có
thể giải quyết thoả đáng một khi có sự hiểu biết đầy đủ về bản chất quy luật sống
của hệ sinh thái rừng. Do đó nghiên cứu cấu trúc rừng được xem là cơ sở quan trọng
nhất, giúp các nhà lâm nghiệp có thể chủ động trong việc xác lập các kế hoạch và
biện pháp kỹ thuật tác động chính xác vào rừng, góp phần quản lý và kinh doanh
rừng bền vững.
Từ vấn đề nêu trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: "Nghiên cứu một số đặc
điểm cấu trúc rừng tại 4 huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang”. Đề tài thực
hiện nhằm góp phần bổ sung những hiểu biết mới về cấu trúc rừng trên địa bàn tỉnh
và đưa ra những giải pháp kỹ thuật lâm sinh tác động nhằm thúc đẩy phát triển
rừng, nâng độ che phủ, góp phần thúc đẩy đa dạng hệ sinh thái rừng tại bốn huyện
vùng cao phía Bắc của tỉnh, một địa danh đã được UNESCO công nhận Công viên
địa chất của toàn cầu.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Hệ sinh thái rừng tự nhiên là đối tượng rất đa dạng, phong phú và phức tạp cả
về cấu trúc và đặc điểm tái sinh. Chính vì vậy việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và
tái sinh của rừng tự nhiên gặp không ít khó khăn, đặc biệt là việc phân loại đối
tượng để phục vụ cho công tác kinh doanh.
Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên quần
thể thực vật rừng theo không gian và thời gian. Cấu trúc rừng bao gồm các nội dung
cả về sinh thái lẫn hình thái quần thể thực vật. Nghiên cứu cấu trúc rừng là vấn đề
cần thiết phục vụ cho việc đề xuất các giải pháp lâm sinh, lập kế hoạch kinh doanh
rừng lâu dài. Đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng tự nhiên đã được nhiều nhà khoa
học trên thế giới và trong nước tiến hành nghiên cứu và đã xây dựng được nhiều cơ
sở khoa học và lí luận phục vụ cho công tác kinh doanh rừng. Có thể điểm qua một
số nghiên cứu liên quan đến nội dung Luận văn như sau:
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Cấu trúc rừng
1.1.1.1. Cơ sở sinh thái cấu trúc rừng
Rừng tự nhiên là một hệ sinh thái cực kỳ phức tạp, bao gồm nhiều thành phần
sinh vật với các quy luật sắp xếp khác nhau theo không gian và thời gian. Cấu trúc rừng
là một nhân tố sinh thái và là kết quả của quá trình chọn lọc, đấu tranh sinh tồn giữa
thực vật với thực vật, giữa thực vật với hoàn cảnh sống xảy ra ngoài tự nhiên. Các yếu
tố của cấu trúc rừng bao gồm: mật độ, tầng phiến, tầng thứ, mạng hình phân bố, cấu
trúc tuổi…. Nghiên cứu cấu trúc rừng để biết được những mối quan hệ sinh thái bên
trong của quần xã, từ đó có cơ sở để đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp.
Điển hình trong nghiên cứu phải nói đến Baur G.N. (1976)[1] đã nghiên cứu các
vấn đề về cơ sở sinh thái học nói chung và cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng
mưa nói riêng, trong đó đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý
về mặt lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. Theo tác giả, các phương thức xử lý
đều nhằm vào hai mục tiêu cụ thể: "Mục tiêu thứ nhất là nhằm cải thiện rừng nguyên
4
sinh vốn thường hỗn loài và không đồng tuổi bằng cách đào thải những cây quá thành
thục và vô dụng để tạo không gian thích hợp cho các cây còn lại sinh trưởng. Mục tiêu
thứ hai là tạo lập tái sinh bằng cách xúc tiến tái sinh, thực hiện tái sinh nhân tạo hoặc
giải phóng lớp cây tái sinh sẵn có đang ở trạng thái ngủ để thay thế cho những cây đã
lấy ra khỏi rừng trong khai thác hoặc trong chăm sóc nuôi dưỡng rừng sau đó". Chính
nhờ quan điểm như vậy, tác giả đã đưa ra những tổng kết hết sức phong phú về các
nguyên lý tác động xử lý lâm sinh.
Catinot (1965)[5] nghiên cứu cấu trúc hình thái rừng thông qua việc biểu diễn
các phẫu đồ rừng. Thông qua việc biểu diễn các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố
cấu trúc sinh thái nhờ việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng
phiến...tác giả cho rằng muốn ổn định hệ sinh thái rừng nhất thiết phải nắm vững quy
luật vận động, biết cách điều tiết mối quan hệ trong sự phức tạp.
Odum E.P (1971)[56] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở thuật
ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm hệ sinh thái được
làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm sinh thái học.
Những kết quả của các tác giả đã làm sáng tỏ các khái niện về hệ sinh thái rừng
và đây là những cơ sở nghiên cứu các nhân tố cấu trúc đứng trên quan điểm sinh thái
học. Nó chính là nền tảng vững chắc cho các công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng
hay ứng dụng đề xuất những biện pháp lâm sinh phù hợp.
1.1.1.2. Về cấu trúc tổ thành
Sự phong phú của hệ thực vật rừng mưa nhiệt đới được nhiều nhà khoa học
ghi nhận và nghiên cứu khá đầy đủ chi tiết. Nổi bật lên là một số tác giả như:
Theo Schimper (1935) ở rừng Bắc Mỹ, trên diện tích 0,5 ha có đến 25-30
loài cây gỗ lớn; Brown (1941) cũng cho biết ở rừng mưa châu Âu hoặc Bắc Mỹ
trong trường hợp cực đoan, rừng có thể bao gồm 20- 25 loài cây gỗ.
Theo Richards P.W (1952)[31] trong rừng mưa nhiệt đới, trên mỗi hecta
không mấy khi có ít hơn 40 loài cây gỗ, mà có trường hợp còn đến trên 100 loài.
Nhiều loài cây gỗ lớn sinh trưởng hỗn hợp với nhau theo tỉ lệ khá bằng nhau, nhưng
cũng có khi chỉ có một hoặc hai loài chiếm ưu thế.
5
Baur G.N (1976)[1] khi nghiên cứu rừng mưa ở khu vực gần Belem trên
sông Amazôn, trên ô tiêu chuẩn diện tích khoảng hai hecta đã thống kê được 36 họ
thực vật và trên ô tiêu chuẩn diện tích hơn bốn hecta ở phía bắc New South Wales
cũng đã ghi nhận được sự hiện diện của 31 họ chưa kể cây leo, cây thân cỏ và thực
vật phụ sinh.
Trong rừng ẩm nhiệt đới châu Phi, theo Catinot. R (1974)[5] có đến vài trăm
loài thực vật; còn trong tổ thành thực vật rừng ẩm nhiệt đới ở Đông Nam á thường
có một nhóm loài ưu thế - nhóm họ dầu, chiếm đến 50 % quần thụ.
Mức độ phong phú của thành phần thực vật trong rừng thứ sinh ở Nepal cũng
đã được Kanel K.R. và Shrestha K (2001)[54] điểm qua, có đến trên 6.500 loài cây
có hoa và 4.064 loài cây không hoa, trong đó có trên 1.500 loài nấm và hơn 350 loài
địa y.
Rõ ràng các công trình nghiên cứu của các tác giả đã cho thấy mức độ phong
phú về tổ thành nhóm loài cây trong hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới. Những kết quả
này đã góp phần rất lớn vào việc đề xuất những tác động hay những biện pháp kỹ
thuật lâm sinh vào đối tượng rất phức tạp này.
1.1.1.3. Về cấu trúc tầng thứ
Một số tác giả như Chevalier (1917), Mildbraed (1922) đã ngụ ý rằng mọi
phương pháp dựa vào chiều cao của cây để phân cây cối thành tầng đều có tính chất
tùy tiện và các "tầng" đó không có một thực tế khách quan.
Richards P.W (1952)[31] đi sâu nghiên cứu cấu trúc rừng mưa nhiệt đới về
mặt hình thái, ông cho rằng: một đặc điểm nổi bật của rừng mưa nhiệt đới là tuyệt
đại bộ phận thực vật đều thuộc thân gỗ. Rừng mưa thường có nhiều tầng (thường có
ba tầng, ngoại trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ). Trong rừng mưa nhiệt đới
ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và các loài thân cỏ còn có nhiều loài cây leo đủ hình dáng
và kích thước, cùng nhiều thực vật phụ sinh trên thân hoặc cành cây "Rừng mưa
thực sự là một quần lạc hoàn chỉnh và cầu kỳ nhất về mặt cấu tạo và cũng phong
phú nhất về mặt loài cây".
Bên cạnh đó, Catinot.R (1965)[5] cũng cho rằng rừng ẩm nhiệt đới có sự
6
phân hoá mạnh, những tầng trong quần thụ rõ nét, cụ thể là có một tầng vượt tán với
những cây có chiều cao trên 40 m và những tầng bên dưới. Ngoài ra tác giả đã biểu
diễn cấu trúc hình thái rừng bằng phẫu diện đồ ngang và đứng.
Chính do tính chất phức tạp của sự phân tầng của rừng mưa nhiệt đới nên
nhiều tác giả có ý kiến không thống nhất nhau trong cách phân chia tầng thứ. Mặc
dù sự phân tầng và phương pháp thể hiện tầng tán trong rừng mưa nhiệt đới có các ý
kiến trái ngược, nhưng các nghiên cứu vẫn tập chung lại ở quan điểm có sự phân
tầng rõ rệt trong rừng mưa nhiệt đới được nhiều nhà khoa học xác nhận.
1.1.1.4. Về cấu trúc mật độ
Theo Richards P.W (1952)[31], trong rừng mưa nhiệt đới ở Nam Mỹ và châu
Phi, mật độ lâm phần (cây có đường kính ngang ngực từ 10 cm trở lên) biến động từ
390 - 1.710 c/ha, trong đó mật độ của những cây có đường kính từ 41cm trở lên
khoảng 39 - 60 c/ha. Baur G.N (1962)[1] cũng cho biết: trong rừng mưa nguyên
sinh ở Mã Lai trên diện tích một hecta có khoảng 550 cây có đường kính từ 10 cm
trở lên, trong đó những cây có đường kính trên 48 cm từ 42 - 65 c/ha.
Về mật độ tối ưu lâm phần, H. Thomasius (1972) đã xây dựng lý thuyết
khoảng sống và hằng số không gian sinh trưởng liên quan tới chiều cao, mật độ và
tuổi. Kairukstis (1980) xác định mật độ tối ưu lâm phần theo diện tích tán lá và mức
độ che phủ. Nhưng các phương pháp này chỉ thích hợp cho nghiên cứu rừng thuần
loài đều tuổi. Đối với rừng hỗn loài khác tuổi, việc xác định tuổi lâm phần rất khó
khăn, cho nên khó áp dụng đối với rừng nhiệt đới hỗn loài khác tuổi.
1.1.1.5. Về nghiên cứu định lượng
Trong các thập kỷ gần đây, xu hướng nghiên cứu cấu trúc rừng trên thế giới
chuyển dần từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng, các mô hình toán
học ngày càng được nhiều tác giả sử dụng để mô phỏng cấu trúc và mối quan hệ
giữa các đại lượng cấu trúc rừng tự nhiên.
a. Quy luật phân bố số cây theo đường kính.
Quy luật phân bố số cây theo đường kính được quan tâm nhiều hơn cả. Các
tác giả đã dùng phương pháp giải tích để tìm các phương trình toán học mô phỏng
7
phân bố này.
Nghiên cứu định lượng các mối quan hệ, cấu trúc rừng nhiệt đới phải nói đến
Rollet (1979)[57] là tác giả có nhiều công trình đi sâu vào lĩnh vực này. Ông đã mô
phỏng quy luật phân bố số cây theo đường kính thân cây ở vị trí 1.3 m, dưới dạng
phân bố xác suất.
Việc mô phỏng phân bố số cây theo đường kính là quy luật kết cấu cơ bản của
lâm phần được nhiều tác giả quan tâm, kiểu phân bố này thường được biểu diễn
dưới dạng toán học với nhiều dạng hàm số khác nhau. Balley (1973)[52] sử dụng
hàm Weibull, nhiều tác giả khác dùng hàm Hyperbol, Meyer, Poisson, ...
Pierlot (1966) nhận thấy rằng, việc nắn đường thực nghiệm bằng phương
trình mũ sẽ mất đi những sai số ở những cỡ kính nhỏ và đề xuất nên dùng hàm
Hyperbol để nắn đường thực nghiệm là tốt hơn cả.
J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992)[53] khi nghiên cứu cấu trúc ở 19 ô
tiêu chuẩn với 60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo – Brazil đã dùng hàm Weibull
để nắn phân bố số cây theo đường kính và nhận xét là, hàm Weibull mô phỏng rất
tốt phân bố này.
b. Quy luật phân bố số cây theo chiều cao
Phần lớn các tác giả khi nghiên cứu cấu trúc lâm phần theo chiều thẳng đứng
đã dựa vào phân bố số cây theo chiều cao. Phương pháp kinh điển nghiên cứu cấu
trúc đứng rừng tự nhiên là vẽ các phẫu diện đồ đứng với các kích thước khác nhau
tùy theo mục đích nghiên cứu. Các phẫu đồ đã mang lại hình ảnh khái quát về cấu
trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng, từ đó rút ra các nhận xét và đề
xuất ứng dụng thực tế. Phương pháp này được nhiều nhà nghiên cứu rừng nhiệt đới
áp dụng, điển hình là các công trình của tác giả Richards.P.W (1952)[31] .
Việc mô phỏng phân bố N/H bằng hàm toán học cũng đã có nhiều tác giả
nghiên cứu, song việc sử dụng hàm nào tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của từng tác giả
và đối tượng cụ thể.
Nhìn chung các nghiên cứu về cấu trúc theo hướng định lượng trên cơ sở
thống kê sinh học vẫn tập trung vào giải quyết phân bố số cây theo đường kính và
8
chiều cao. Các hàm toán học được sử dụng để mô phỏng rất đa dạng và phong phú,
nhưng khi kiểm tra bằng tiêu chuẩn phù hợp của thống kê toán học thường chỉ đạt ở
mức trung bình. Xu hướng nghiên cứu các quy luật phân bố của nhân tố điều tra,
chủ yếu tập trung vào tìm các hàm toán học thích hợp để mô phỏng các quy luật
phân bố của các nhân tố điều tra.
c. Quy luật tương quan giữa đường kình ngang ngực và chiều cao vút ngọn
Giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực của các cây trong lâm
phần luôn tồn tại mối quan hệ chặt và tuân theo quy luật: khi tuổi tăng thì đường
kính và chiều cao tăng theo và giữa chúng tồn tại mối quan hệ theo dạng đường
cong. Cùng với tuổi tăng lên thì đường cong có xu hướng dịch chuyển lên trên
Tiurin D.V (dẫn theo Đào Công Khanh, 1996)[20]. Ngoài ra thì độ dốc của đường
cong chiều cao giảm theo tuổi (Prodan, 1965).
Một số tác giả đã sử dụng các hàm toán học khác nhau để biểu thị mối quan
hệ này. Có thể điểm qua một vài công trình nghiên cứu điển hình sau:
Tovstolesse, DI (1930) đã lấy cấp đất làm cơ sở để nghiên cứu quan hệ
Hvn/D1.3. Mỗi cấp đất tác giả lập một đường cong chiều cao bình quân ứng với mỗi
cỡ đường kính để có dãy tương quan cho loài và cấp chiều cao. Sau đó dùng
phương pháp biểu đồ để nắn dãy tương quan theo dạng đường thẳng của Gehrhardt
và Kopetxki (dẫn theo Phạm Ngọc Giao, 1994)[15].
Các tác giả Naslund, M (1929); Assmanm, E (1936); Hohenadl, W (1936);
Prodan, M (1944); Meyer, H.A (1952)[55] đã đề nghị các dạng phương trình:
2
1 2 h a b .d b .d
(1.1)
2
2
.
1,3
a b d
d
h
h a b.log d
(1.3)
b
h k.d (1.4)
Petterson, H (1955) đề xuất sử dụng phương trình:
d
b
a
h
3 1,3
1
(1.5)
(1.2)
9
Curtis, R.O (1967) đã mô phỏng quan hệ giữa chiều cao với đường kính và
tuổi theo dạng phương trình:
d A
b
A
b
d
Logh d b
.
1
.
1
.
1
. 1 2 3
(1.6)
1.1.2. Tái sinh rừng tự nhiên
Vai trò của tái sinh rừng hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại của
thảm thực vật, tái sinh rừng là tiền đề cho quá trình diễn thế rừng, đảm bảo cho rừng
luôn trong trạng thái vận động. Do vậy có thể nói những nghiên cứu về tái sinh đã
góp phần làm sáng tỏ các quy luật tồn tại và phát triển của rừng cả trong quá khứ,
hiện tại và tương lai.
Về phương pháp điều tra tái sinh, đa số tác giả sử dụng mẫu ô vuông theo hệ
thống của Lowdermilk (1927), diện tích ô đo đếm thường từ 1- 4 m2
; nhưng phổ
biến nhất là phương pháp bố trí ô đo đếm theo hệ thống trong các diện tích nghiên
cứu từ 0,25 - 1,0 ha.
Davis và Richards (1933-1934), trong khi nghiên cứu rừng mưa ở khu vực
sông Moraballi, Guana, đã thống kê số cây thứ tự từ thấp đến cao, đầu tiên là số
mầm non dưới 2 m, kế đến là số cây non có đường kính dưới 10 cm và chiều cao
trên 4,6 m, sau đó mới đến số cây gỗ có đường kính trên 10 cm, với cỡ đường kính
bốn tấc Anh (10 cm); cây tái sinh đã được thống kê từ dưới hai mét cho đến chiều
cao 4,6 m với đường kính dưới 10 cm.
Van Steniss (1956)[58] đã nêu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng nhiệt
đới là kiểu tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và kiểu tái sinh vệt
của các loài cây ưa sáng. Tái sinh phân tán liên tục, rừng mưa nhiệt đới có tổ thành
loài cây phức tạp, khác tuổi nên thời kỳ tái sinh của quần thể diễn ra quanh năm.
Đặc điểm tái sinh này có nguồn gốc sâu sa bắt nguồn từ bản chất của rừng mưa
nhiệt đới và cũng là tiền đề tạo ra một thế hệ rừng mới hỗn loài, khác tuổi. Một đặc
điểm tái sinh khác phổ biến ở rừng mưa nhiệt đới, thích hợp với loài cây ưa sáng là
tái sinh vệt.
Ánh sáng là nhân tố sinh thái ảnh hưởng mạnh đến sinh trưởng của cây tái
10
sinh, là quan điểm được nhiều nhà khoa học thống nhất. Blanford (1929) nhận thấy
các loài cây ưu thế của rừng thường xanh tại Mã Lai tái sinh tốt nhất ở nơi có lỗ
trống với bề ngang không rộng quá 6 m; ở nơi có lỗ trống lớn hơn, không thấy có
cây tái sinh tại phần chính giữa. Kramer (1933) qua các quan sát trong rừng mưa
miền cao ở núi Gedeh tại Java, cũng thấy rằng trong những khoảng trống diện tích
không quá 1.000 m2
, cây tái sinh sẵn có của loài ưu thế ở rừng nguyên sinh vẫn
sống sót và sinh trưởng tốt. Nhưng nếu khoảng trống rộng đến 2.000- 3.000 m2
, thì
sự tái sinh thiên nhiên sẽ bị các loài cây của rừng thứ sinh mọc rất mạnh, đào thải
hoàn toàn (Richards P.W(1952)[29]). Trong rừng mưa nhiệt đới, sự thiếu hụt ánh
sáng ảnh hưởng chủ yếu đến sự phát triển của cây con, còn đối với sự nẩy mầm và
phát triển của mầm non thì ảnh hưởng này thường không rõ (Richards P.W(1952),
Baur G.N (1962)[1,2].
Những kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế
giới đã cung cấp các thông tin về phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh tự
nhiên ở một số vùng. Mặc dù vậy, thảm thực vật rừng nhiệt đới rất đa dạng và phức
tạp, đời sống của nó gắn liền với điều kiện tự nhiên ở từng vùng địa lý. Vì thế cần
tiếp tục nghiên cứu quy luật tái sinh tự nhiên của hệ sinh thái rừng ở các vùng địa lý
khác nhau làm cơ sở cho việc phân tích và đề xuất các luận điểm khoa học một cách
chính xác.
Tóm lại, trên thế giới, các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng
nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều công trình
nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh rừng. Những kết
quả nghiên cứu đã làm sáng tỏ việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tái sinh rừng
thường xanh nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng. Tuy nhiên, khi ứng dụng vào
thực tiễn Việt Nam lại cần phải có một sự điều chỉnh phù hợp bởi vì nhiều nguyên
do khác nhau. Thứ nhất đó là những nghiên cứu này được thực hiện tại những khu
vực có điều kiện lập địa hoàn toàn khác so với điều kiện ở Việt Nam. Bên cạnh đó,
các nghiên cứu về cấu trúc và tái sinh tự nhiên ở mức độ trạng thái rừng còn thiếu.
Cho nên việc vận dụng các kết quả này để đề xuất các biện pháp lâm sinh vào điều