Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu hiện trạng và trồng thử nghiệm cây mật nhân (eurycoma longifolia jack) tại một số huyện miền núi của tỉnh quảng nam.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
A RẤT ĐỨC
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ TRỒNG
THỬ NGHIỆM CÂY MẬT NHÂN (EURYCOMA
LONGIFOLIA JACK) TẠI MỘT SỐ HUYỆN
MIỀN NÚI CỦA TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số : 60.42.60
TÓM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Đà Nẵng - Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ THÍNH
Phản biện 1: PGS.TS NGUYỄN KHOA LÂN
Phản biện 2: PGS.TS NGUYỄN TẤN LÊ
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ Khoa học họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 17 tháng 01 năm
2015
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm thông tin - học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng cây thuốc trong tự nhiên để
phòng và chữa bệnh. Theo Viện Dược Liệu, Bộ Y tế, tính đến năm
2005 đã ghi nhận được 3948 loài thực vật và nấm lớn; 52 loài tảo biển,
408 loài động vật, 75 loại khoáng vật có công dụng làm thuốc. Trong
tổng số các loài cây thuốc, gần 90% là các cây mọc tự nhiên, tập trung
chủ yếu ở các quần xã rừng; chỉ có khoảng 10% cây thuốc được trồng.
Theo thống kê của Bộ Y tế, mỗi năm ở Việt Nam tiêu thụ từ 30 - 50 tấn
dược liệu khác nhau dùng trong y học cổ truyền hoặc làm nguyên liệu
cho công nghiệp dược và xuất khẩu. Trong đó, trên 2/3 được khai thác
từ cây tự nhiên hoặc cây trồng.
Theo số liệu điều tra về tài nguyên dược liệu năm 2003, Quảng
Nam đã phát hiện 832 loài thực vật và 142 loài động vật có giá trị làm
thuốc (Nguyễn Bá Hoạt, Viện Dược liệu Việt Nam). Tuy nhiên, nguồn
tài nguyên dược liệu tự nhiên đang ngày một cạn kiệt, nhiều loài đang
đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, cây dược liệu trồng đang bị thu hẹp
hoặc phát triển một cách tự phát mất cân đối. Sự giảm sút nguồn dược
liệu có nhiều nguyên nhân, có thể chủ quan lẫn khách quan như chiến
tranh, sự khai thác bất hợp pháp, trình độ nhận thức bảo tồn tài nguyên
cây thuốc của con người còn nhiều hạn chế, nhất là vùng miền núi.
Khai thác, bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên sinh vật nói
chung và cây thuốc nói riêng là vấn đề cấp bách, đang nhận được sự quan
tâm lớn của các nhà quản lý và khoa học. Bảo vệ tài nguyên sinh vật là
chúng ta đang bảo vệ sự cân bằng sinh thái, bảo vệ sự đa dạng sinh học và
môi trường, bảo vệ chính chúng ta về sức khỏe, kinh tế, văn hóa,... Hơn
nữa, phát triển dược liệu trong giai đoạn hiện nay cũng mở ra cơ hội rất lớn
cho việc giao thương, tham gia thị trường quốc tế về dược liệu và dược
phẩm có nguồn gốc tự nhiên.
2
Cây mật nhân (Eurycoma Longifolia Jack) là một trong những loại cây
thuốc quý, nó mọc hoang ở các vùng núi, rừng miền Trung, Tây Nguyên.
Ở Quảng Nam, cây mật nhân cũng được sử dụng để chữa nhiều bệnh cho
con người, vì vậy người dân địa phương và dân từ nơi khác đến khai thác,
mua bán khắp nơi trong tỉnh. Trước tình trạng khai thác quá mức, không có
các giải pháp quản lý, tái sinh hợp lý như hiện nay thì nguy cơ suy giảm
nhanh chóng về số lượng và tuyệt chủng nguồn dược liệu quý là khó tránh
khỏi. Do đó, việc khảo sát đánh giá một cách có hệ thống về hiện trạng
phân bố cũng như nghiên cứu các biện pháp gây trồng cây mật nhân, nhằm
góp phần bảo tồn, phát triển và khai thác bền vững loài cây thuốc quý này
là rất cần thiết.
Xuất phát từ các cơ sở trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu
hiện trạng và trồng thử nghiệm cây mật nhân tại một số huyện miền núi
của tỉnh Quảng Nam”
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về hiện trạng cây mật nhân trong
tự nhiên và khả năng sinh trưởng của cây mật nhân được trồng tại một
số huyện miền núi của Quảng Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định đặc điểm phân bố, trữ lượng, đặc điểm sinh thái đặc trưng
của cây mật nhân tại một số vùng miền núi của tỉnh Quảng Nam.
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng cây mật nhân được trồng tại
một số huyện của tỉnh Quảng Nam.
3. Nội dung nghiên cứu
- Khảo sát tìm hiểu thông qua phỏng vấn công đồng về khả năng
phân bố của cây mật nhân tại Quảng Nam nhằm tìm ra vùng phân bố
chủ yếu của cây mật nhân.
3
- Đánh giá hiện trạng thông qua việc xác định sự phân bố, trữ lượng,
các đặc điểm sinh thái đặc trưng cây mật nhân trong các vùng nghiên
cứu được lựa chọn.
- Xây dựng bản đồ hiện trạng phân bố cây mật nhân tại một số
huyện miền núi tỉnh Quảng Nam.
- Trồng thử nghiệm và đánh giá khả năng sinh trưởng của cây mật
nhân tại một số huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4.1. Ý nghĩa khoa học
Cung cấp dữ liệu khoa học có hệ thống về hiện trạng của cây mật
nhân trong tự nhiên và đặc điểm sinh trưởng của cây mật nhân được
trồng tại một số huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam.
4.2. Ý thực tiễn
Đề tài cung cấp cơ sở khoa học tốt phục vụ cho công tác quản lý, bảo
tồn và phát triển bền vững nguồn thuốc quý; góp phần đáp ứng ổn định
nguồn dược liệu trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
5. Các đóng góp mới của đề tài
- Cung cấp dữ liệu khoa học mới về hiện trạng phân bố, các đặc
điểm sinh thái, sinh học của cây mật nhân
- Thiết lập được bản đồ hiện trạng phân bố cây mật nhân
- Cung cấp kỹ thuật trồng cây mật nhân
6. Bố cục của đề tài
Nội dung của đề tài có tổng 85 trang, trong đó phần Mở đầu: 4
trang; Tổng quan tài liệu: 24 trang; Đối tượng, địa điểm, thời gian và
phương pháp nghiên cứu: 8 trang; Kết quả và thảo luận: 42 trang; Kết
luận và kiến nghị: 3trang. Đề tài đã tham khảo tài liệu, trong đó có: 33
tài liệu tiếng Việt và 6 tài liệu tiếng Anh.
4
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SƠ LƢỢC VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA TỈNH QUẢNG NAM
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
+ Vị Trí địa lý: Tỉnh Quảng Nam có tọa độ địa lý: Từ 140
57’10’’ đến
160
03’50” vĩ độ bắc và từ 1070
12’40” đến 1080
44’20” kinh độ đông.
- Phía bắc giáp: Tỉnh Thừa Thiên Huế và Thành phố Đà Nẵng.
- Phía nam giáp tỉnh Quảng Ngãi.
- Phía tây giáp nước CHDCND Lào và tỉnh Kon Tum.
- Phía đông giáp biển Đông.
Huyện Nam Giang, Đông Giang và Phước Sơn nằm ở phía tây
Quảng Nam, độ cao trung bình 650 m (đỉnh cao nhất là 2.000 m), độ
dốc bình quân 13 – 200
. Địa hình khá phức tạp, bị chia cắt bởi các khối
núi và sông suối chằng chịt trong các thủng lung nhỏ hẹp. Núi ở đây có
độ dốc rất lớn, nhưng nhìn chung thấp dần về phía Đông và Đông Nam.
+ Diện tích:
- Nam Giang: 184.288,66 ha,
- Phước Sơn: 114.479,31 ha,
- Đông Giang: 81.263,23 ha.
+ Địa hình – Thổ nhưỡng:
- Địa hình: Tỉnh Quảng Nam có địa hình nghiêng dần từ Tây sang
Đông hình thành 3 kiểu cảnh quan sinh thái rõ rệt là kiểu núi cao phía
Tây, kiểu trung du ở giữa và dải đồng bằng ven biển. Vùng đồi núi
chiếm 72% diện tích. Các huyện Nam Giang, Đông Giang và Phước
Sơn nằm dọc dãy trường sơn với 65% là đồi núi. Rừng có nhiều thổ
sản, đất đai thích hợp với cây mật nhân phát triển.
5
- Thổ nhưỡng: Theo số liệu của sở tài nguyên - môi trường tỉnh
Quảng Nam thì đất đai tại Nam Giang, Đông Giang và Phước Sơn gồm
có các loại đất cơ bản sau:
Đất phù sa sông suối (Pj).
Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp).
Đất nâu tím trên đá paranai (Fe).
Đất đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất (Fs).
Đất nâu đỏ trên đá macma bazơ và trung tính (Fk).
Đất vàng đỏ trên đá macma axit (Fa).
Đất mùn đỏ trên đá paranai (Hs).
Đất đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất (Ha) .
Đất dốc tụ (D).
+ Khí hậu – Thủy Văn:
- Khí hậu: Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chỉ có 2 mùa
là mùa mưa và mùa khô, chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh miền Bắc.
huyện Nam Giang, Đông Giang và Phước Sơn có khí hậu nhiệt đới và gió
mùa. Thời tiết chia làm hai mùa: mùa nắng và mùa mưa.
- Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình năm 25,4oC, nhiệt độ cao nhất
410C, nhiệt độ thấp nhất 100C, Tổng nhiệt độ năm 90 - 980C..
- Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình 2000-2500mm, nhưng phấn bố
không đều theo thời gian và không gian, mưa ở miền núi nhiều hơn đồng
bằng, mưa tập trung vào các tháng 9 - 12, chiếm 80% lượng mưa cả năm.
Một số thời tiết đặc biệt: Bão và áp thấp nhiệt đới, dông…thường
xuyên xảy ra.
- Thủy văn: Tại ba huyện có các con lớn như Sông Bung, Sông A
Vương, sông Vu Gia, sông Vàng, sông Kôn, và các hệ thống khe, suối
chằng chịt, hầu hết ở các xã, thôn của ba huyện…
+ Tài nguyên sinh vật:
6
- Động vật: Về khu hệ động vật có xương sống trên cạn rất đa dạng
và phong phú: Theo tài liệu khu bảo tồn thiên nhiên sông Thanh có 53
loài thú, 183 loài chim, 44 loài bò sát, 21 loài lưỡng cư, 25 loài cá và rất
nhiều động vật không xương sống.
- Thực vật: Theo tài liệu điều tra của WWF - Đông Dương và Viện
Điều tra Qui hoạch Rừng Việt Nam thực hiện tại khu bảo tồn thiên
nhiên sông Thanh có 831 loài thực vật bậc cao (thuộc 494 chi, 135 họ)
đã được ghi nhận qua các đợt khảo sát năm 1997 và 1999.
1.1.2. Điều kiện Kinh tế - Xã hội
+ Dân số:
Huyện Đông Giang dân số toàn huyện là: 23.157 người, phần lớn là
người dân tộc cơ tu 16.957 người, chiếm 73,23% dân số toàn huyện,
dân tộc kinh 6.200 người chiếm 26,77%
Huyện Phước Sơn dân số toàn huyện là: 21.687 người, trong đó dân
tộc M’Nông chiếm 70% dân số toàn huyện.
Huyện Nam Giang dân số toàn huyện là: 24.732 người, ngoài dân
tộc cơtu còn có dân tộc ve, ta riềng sống chủ yếu phụ thuộc vào rừng.
+ Tình hình sản xuất các ngành kinh tế:
- Sản xuất nông nghiệp:
Nam Giang: Tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp: 5.263,05 ha
Đông Giang: Tổng diện tích đất nông nghiệp 7.456,88 ha.
Phước Sơn: Tổng diện tích đất Nông nghiệp (ha): 4.784,94
- Sản xuất lâm nghiệp
Nam Giang: Tổng diện tích đất sản xuất Lâm nghiệp (ha): 74.287,34
Đông Giang: Tổng diện tích đất Lâm nghiệp 70.45688 ha.
Phước Sơn: Tổng diện tích đất Lâm nghiệp (ha): 74.287,34
- Kinh tế trang trại: Tại ba huyện Nam Giang, Đông Giang và
Phước Sơn kinh tế trang trại chưa được chú trọng. Chủ yếu trang trí hộ
gia đình nhỏ lẻ.
7
- Cở sở hạ tầng
Giao thông : Nam Giang, Đông Giang và Phước Sơn từ nhiều năm
trước dường từ miền xuôi lên các huyện đã có, nhưng chỉ là đường đất,
hiện nay một số xã của ba huyện vẫn có đường đất nhựa, việc đi lại còn
gặp nhiều.
Hệ thống công trình thủy lợi: Có 78 hồ chứa các loại với tổng dung
tích hữu ích của các hồ chứa khoảng 0,5 tỉ m3
, trong đó gần 30 hồ chứa
có dung tích từ 0.5 triệu m3
trở lên, các hệ thống kênh mương, 348 đập
dâng kiên cố, 154 trạm bơm và ống lưới được xây dựng do người dân
địa phương quản lý phục vụ cho nông nghiệp. sông Bung, A Vương,
Đăk Mil, sông Pring…
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÂY DƢỢC LIỆU
1.2.1. Sơ lược về tình hình nghiên cứu cây dược liệu trên thế giới
Trải qua nhiều thế kỷ, cây thuốc giữ vai trò trọng yếu trong việc duy
trì sức khỏe và hạnh phúc của các cộng đồng người trên khắp thế giới.
Các kinh nghiệm dân gian về sử dụng cây thuốc chữa bệnh được nghiên
cứu ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của từng quốc
gia. Từ đó, mỗi châu lục mỗi dân tộc hình thành nên nền dược thảo
mang nét đặc trưng riêng.
a. Nguồn gốc, phân bố của một số loài cây thuốc [18]
Cây bồ bồ (Adenosma indiana (Lour.) Merr), theo một số tài liệu
của Trung Quốc bồ bồ phân bố khắp vùng nhiệt đới từ Ấn Độ, Srilanca
đến Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Trung Quốc và
một số đảo lớn (Borne, Java) của Inđônêxia, bồ bồ là cây ưa sáng và có
thể chịu hạn, không chịu được úng. Độ cao từ 100 - 800m so với mực
nước biển. Nhiệt độ thích hợp 25 - 35oC, độ ẩm 80 - 85%. Cây Kim
Tiền Thảo (Desmodium styracifolium) phân bố ở khu vực Đông Nam Á
và Hoa Nam, mọc ở các đồi vùng núi có độ cao dưới 1.000 m. Cây
Nothatodytes foctida – nguồn gốc ở Sri Lanka, được dùng làm thuốc
8
chống ung thư. Cây Mộc hương Sausurea Lappe – nguồn gốc ở Ấn Độ,
được dùng trị các bệnh ngoài da. Cây Kim Ngân (Pachia aquatica), có
nguồn gốc Mexico, Brazil, Nam Mỹ và đầm lầy Trung Mỹ. Cây Đinh
Lăng (Polyscias fruticosa) mọc ở Lào và miền nam Trung Quốc.
Cây Bạch Đồng Nữ (Cleroden fragrans Vent) Phân bố ở nhiều tỉnh
miền nam Trung Quốc, Philippin, Inđônêsia.
b. Giá trị của cây dược liệu
Theo một nghiên cứu của nhà thực vật học người Anh Alan
Hamilton, thành viên của Quỹ Thế giới Bảo vệ Thiên Nhiên (viết tắt là
WWF), trên quy mô toàn cầu, doanh số mua bán cây thuốc hàng năm
ước tính lên tới 16 tỷ Euro. Tại Mỹ là 4 tỷ USD/năm, châu Âu là 2,4 tỷ
USD/năm, Nhật Bản là 2,7 tỷ USD/năm, các nước châu Á khác khoảng
3 tỷ /USD năm .
c. Vai trò và nhu cầu về cây dược liệu
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, 80% dân số thế giới nằm ở khu vực
các nước đang phát triển và 80% dân số ở các nước này sử dụng thuốc có
nguồn gốc tự nhiên như một lựa chọn hàng đầu trong việc phòng và chữa
bệnh. Với số dân khổng lồ, nhiều bệnh tật nên nhu cầu sử dụng thuốc hiệu
quả cao ngày càng tăng. Nhu cầu về sử dụng thuốc trên thế giới là rất lớn,
cả về số lượng và chất lượng. Đây đang là một thách thức lớn đối với các
nước đang phát triển nói riêng và nhân loại nói chung.
1.2.2. Sơ lƣợc về tình hình cây dƣợc liệu ở Việt Nam
Năm 1960, Phạm Hoàng Độ và Nguyễn Văn Dương đã cho xuất bản
bộ “Cây cỏ Việt Nam”. Tuy chưa giới thiệu được hệ thực vật Việt Nam,
nhưng phần nào cũng đưa ra được công dụng làm thuốc của nhiều loài
thực vật. Liên quan đến vấn đề cây thuốc, tập thể các nhà khoa học
Viện Dược liệu đã xuất bản cuốn “Dược điển Việt Nam” tập I, II đã
tổng kết các công trình nghiên cứu về cây thuốc trong những năm qua.
Viện dược liệu, Bộ y tế cùng với hệ thống trạm nghiên cứu dược liệu,
9
điều tra ở 2795 xã, phường, thuộc 35 huyện, đã có những đóng góp
đáng kể trong công tác điều tra sưu tầm nguồn tài nguyên cây thuốc
trong y học cổ truyền dân gian. Trần khắc Bảo (1994) “Phát triển cây
dược liệu ở Lào Cai và Hà Giang” đã đề cập đến các vấn đề về chế biến
bảo quản và phát triển cây thuốc ở địa bàn nghiên cứu.
Năm 1973, có bốn cán bộ của khu Y tế Trung trung bộ đi điều tra
phát hiện cây sâm Ngọc Linh tại huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam đó là
Đào Kim Long làm trưởng đoàn, Nguyễn Bá Hoạt, Nguyễn Châu
Giang, Trần Thanh Dân. Năm 2003 Nguyễn Bá Hoạt (Viện Dược liệu
Việt Nam) tiến hành điều tra các loại cây thuốc tại tỉnh Quảng Nam.
a. Tình hình phân bố cây dược liệu
Căn cứ vào các điều kiện về khí hậu, đất đai và thực tiễn về phân bố
cây dược liệu trong tự nhiên. Việt Nam xác định có 8 vùng sinh thái
cây dược liệu gồm: Vùng núi Đông Bắc Bộ, vùng Việt Bắc – Hoàng
Liên Sơn, Vùng Tây Bắc, Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ, Vùng Bắc Trung
Bộ, Vùng Đông Trường Sơn và Nam Trung Bộ, Vùng Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long. Các loại dược liệu bao
gồm dược liệu tự nhiên và dược liệu trồng [2, 3].
b. Giá trị của cây dược liệu
Theo thống kê, trong năm 2012, doanh thu sản xuất thuốc từ dược
liệu tại Việt Nam đạt 3.500 tỷ đồng (gấp hơn 1,75 lần so với doanh thu
năm 2010). Trong số 20 loại dược liệu có nhu cầu dùng cho sản xuất
thuốc lớn nhất năm 2011, Artiso đứng đầu danh sách với số lượng tiêu
thụ lên tới 2000 tấn/năm, tiếp theo là Đinh lăng với hơn 900
tấn/năm…Như vậy, có thể nói cây thuốc chính là nguồn nguyên liệu
của nền công nghiệp tân dược trong tương lai, chứ không phải là nguồn
nguyên liệu hóa dược mà chúng ta đang mất nhiều thời gian và công
sức để theo đuổi trong nhiều năm qua [3].
10
c. Vai trò và nhu cầu sử dụng cây dược liệu
Nguồn cây cỏ phong phú và tri thức về cách sử dụng chúng để làm
thuốc là hai mặt của vấn đề tài nguyên cây thuốc. Việt Nam cũng là
một trong những nước có nền Y học cổ truyền rất phát triển. Ngoài y
học cổ truyền chính thống với nhiều tên tuổi đã đi vào lịch sử ngành
thuốc Việt Nam chúng ta còn phải kể đến Y học cổ truyền bản địa của
các dân tộc thiểu số. Vùng núi Việt Nam chiếm tới 3/4 diện tích lãnh
thổ, là nơi cư trú của 54 dân tộc mà các dân tộc thiểu số chủ yếu sống ở
các vùng núi có phong tục tập quán khác nhau. Chính sự đa dạng về sắc
tộc cùng sự khác biệt về tập quán, về văn hoá trong từng cộng đồng dân
tộc đã dẫn đến sự đa dạng trong kinh nghiệm gia truyền trong việc chữa
bệnh và cách sử dụng nguyên liệu làm thuốc bản địa. Cùng một cây
thuốc nhưng họ lại có cách dùng khác nhau thậm chí có những cách pha
chế độc đáo mà chúng ta chưa từng biết đến. Đây thực sự là một kho
tàng tri thức sử dụng cậy thuốc phong phú mà chúng ta cần tìm hiểu,
khai thác, bảo vệ và sử dụng một cách lâu bền [10, 16].
d. Tình hình khai thác cây dược liệu
Dược liệu được khai thác, sử dụng chủ yếu làm nguyên liệu cho công
nghiệp đông dược y học cổ truyền, công nghiệp tân dược hiện đại và công
nghiệp dược - mỹ phẩm hương liệu [27]. Ngoài việc tự túc một phần dược
liệu cho tiêu dùng trong nước, làm nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất thuốc,
ngành dược đã xuất khẩu được nhiều dược liệu và tinh dầu với số lượng
đáng kể đem lại nguồn ngoại tệ đạt hàng chục triệu USD/năm.
Tình trạng nuôi trồng và khai thác dược liệu ở nước ta hiện nay còn
tự phát, quy mô nhỏ dẫn đến sản lượng dược liệu không ổn định, giá cả
biến động. Việc khai thác dược liệu quá mức mà không đi đôi với việc
tái tạo, bảo tồn dược liệu đã dẫn đến số lượng loài cây dược liệu có khả
năng khai thác tự nhiên còn rất ít (trên cả nước hiện chỉ còn khoảng 206