Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Động Lực Học Quá Trình Khởi Hành Của Liên Hợp Tời Cáp Cần Treo Gỗ Lắp Trên Máy Kéo Cỡ Nhỏ Để Vận Xuất Gỗ Rừng Trồng Trên Dốc Dọc
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé n«ng nghiÖp vµ PTNT
trêng ®¹i häc l©m nghiÖp
§Æng ThÞ Hµ
Nghiªn cøu ®éng lùc häc qu¸ tr×nh khëi hµnh
cña liªn hîp têi c¸p, cÇn treo gç l¾p trªn
m¸y kÐo cì nhá ®Ó vËn xuÊt gç rõng trång
trªn dèc däc
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc kü thuËt
Hµ Néi – 2008
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé n«ng nghiÖp vµ PTNT
trêng ®¹i häc l©m nghiÖp
§Æng ThÞ Hµ
Nghiªn cøu ®éng lùc häc qu¸ tr×nh khëi hµnh
cña liªn hîp têi c¸p, cÇn treo gç l¾p trªn
m¸y kÐo cì nhá ®Ó vËn xuÊt gç rõng trång
trªn dèc däc
Chuyªn ngµnh: Kü thuËt m¸y vµ thiÕt bÞ c¬ giíi ho¸ n«ng l©m nghiÖp
M· Sè: 60 52 14
LuËn v¨n th¹c sü khoa häc kü thuËt
Ngêi híng dÉn khoa häc
Ts. Lª V¨n Th¸i
Hµ Néi – 2008
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta vốn là một đất nước có tài nguyên rừng phong phú, đa dạng
với nhiều loại cây, gỗ và lâm sản có giá trị cao. Từ lâu rừng đã gắn liền với
cuộc sống của hàng chục triệu người dân, đã và đang đóng vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Bước vào thời kỳ Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước, vai trò của rừng đối với việc bảo vệ môi trường,
cung cấp lâm sản cho nền kinh tế quốc dân, đáp ứng các yêu cầu văn hoá
thẩm mỹ của con người sẽ ngày càng tăng lên.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau về thời tiết khí hậu, đất đai bị ô
nhiễm, do sức ép về nhu cầu của con người đã tác động xấu đến rừng, làm
cho rừng nước ta ngày càng suy giảm. Nhận thức đúng đắn những hậu quả to
lớn, nhiều mặt do sự tàn phá rừng gây ra, cũng như tầm quan trọng của rừng
đối với các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái, an ninh quốc
phòng. Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm, khuyến khích hỗ trợ nhiều dự
án trồng rừng nhằm mục đích khôi phục và phát triển rừng. Đặc biệt tại kỳ
họp thứ 2 Quốc hội khóa X đã đưa ra nghị quyết về dự án trồng mới 5 triệu ha
rừng [21]. Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng được mở ra với quy mô rộng lớn
nhằm gây trồng 3 loại rừng chính là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng
sản xuất. Thúc đẩy phát triển rừng là xu thế tất yếu của xã hội để góp phần
duy trì sự sống trên trái đất và để đáp ứng nhu cầu về lâm sản cho xã hội ngày
càng cao. Vai trò của rừng trồng ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong việc
đáp ứng nhu cầu về gỗ cho nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, gỗ và củi chủ yếu được lấy ra từ rừng trồng. Rừng trồng ở
nhiều nơi đang được khai thác với số lượng lớn để làm nguyên liệu giấy, làm
gỗ trụ mỏ, làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ và các ngành kinh tế
khác. Đặc điểm của rừng trồng là phân tán, trữ lượng ít, đường xá nhỏ hẹp, địa hình dốc lớn và không đồng đều, khai thác không đại trà (chặt đan xen
từng vùng để đảm bảo môi trường bền vững), điều kiện áp dụng cơ giới hoá
cho khâu khai thác có những khó khăn nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu, lựa
2
chọn sử dụng các loại máy móc, thiết bị phù hợp để vận xuất gỗ rừng trồng là
vấn đề cần thiết. Trong những năm gần đây ở nước ta, máy kéo cỡ nhỏ được sử dụng
phổ biến trong sản xuất nông lâm nghiệp, đó là các loại máy kéo MTZ-80,
DFH-180, máy kéo Shibaura, máy kéo bông sen-12… Trên cơ sở tận dụng
nguồn động lực sẵn có trong sản xuất nông lâm nghiệp như hiện nay, đã có
nhiều đề tài nghiên cứu thiết kế thiết bị chuyên dùng, dùng nguồn động lực là
máy kéo cỡ nhỏ để vận chuyển, vận xuất gỗ rừng trồng - là khâu công việc rất
nặng nhọc và nguy hiểm trong dây chuyền công nghệ khai thác gỗ. Một trong
số các đề tài đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công thiết bị lâm nghiệp
chuyên dùng đó là liên hợp máy (LHM) có nguồn động lực là máy kéo cỡ nhỏ
với thiết bị tời cáp để vận xuất gỗ rừng trồng. Do điều kiện làm việc của LHM trên địa hình đất dốc và không bằng
phẳng nên đôi khi vận xuất gỗ thì LHM phải dừng trên dốc và người điều
khiển phải thực hiện lại quá trình khởi hành, sang số trên những địa hình dốc
là rất phổ biến. Việc khởi hành LHM trên dốc dọc là một quá trình phức tạp
và khó khăn nhất trong quy trình sử dụng LHM di chuyển vận xuất gỗ. Quá
trình khởi hành là quá trình chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động gây
nên áp lực động đột ngột lên các cơ cấu của LHM dẫn đến hư hỏng đột ngột
và giảm tuổi thọ của chi tiết máy. Quá trình khởi hành của LHM không chỉ
phụ thuộc vào các đặc tính kỹ thuật của LHM như công suất động cơ, tải
trọng, quá trình biến đổi năng lượng trong động cơ và đường truyền công
suất… mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan như độ dốc, hệ số
bám, tính ổn định và kỹ năng thao tác, vận hành của người điều khiển. Để
hiểu rõ bản chất quá trình khởi hành của LHM trên dốc dọc và đánh giá các
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng khởi hành, để có cơ sở hoàn thiện thêm về
mặt kết cấu và chọn chế độ sử dụng LHM có hiệu quả và đảm bảo an toàn, đòi hỏi phải nắm được các tính chất động học và động lực học của từng phần
tử và toàn bộ hệ thống của LHM trong quá trình khởi hành. Nghiên cứu cơ sở
3
khoa học đề xuất chỉ dẫn sử dụng LHM, để đảm bảo cho LHM làm việc ổn
định, an toàn trên đồi dốc là một hướng nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài luận văn: “Nghiên
cứu động lực học quá trình khởi hành của liên hợp tời cáp, cần treo gỗ lắp
trên máy kéo cỡ nhỏ để vận xuất gỗ rừng trồng trên dốc dọc” với mục đích
nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học để tính toán thiết kế cải tiến và lựa
chọn chế độ sử dụng hợp lý LHM khi làm việc trên đất dốc.
4
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình sử dụng máy kéo nông nghiệp ở nước ta
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Tiếp tục tạo
chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng
cao đời sống nhân dân. Cùng với những thành tựu sau 20 năm đổi mới, quá
trình thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. [18]
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất, thực hiện chủ trương công nghiệp hoá và
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nền sản xuất nông nghiệp ở nước ta
ngày càng được quan tâm và không ngừng phát triển, ruộng đất được chia lâu
dài cho các hộ nông dân, nhiều hộ gia đình còn được sở hữu nhiều hecta gieo
trồng do vậy nhu cầu cần trang bị máy móc là rất lớn để phục vụ cho các khâu
công việc như làm đất, gieo trồng, chăm sóc, bơm nước, thu hoạch, vận
chuyển… Hiện nay máy kéo nông nghiệp đã được nhập vào nước ta rất nhiều
chủ yếu phục vụ cho canh tác nông nghiệp. Thị trường trong nước chủ yếu là
các loại máy kéo nhỏ của Trung Quốc với giá rẻ và chất lượng chưa tốt. Máy
kéo đã qua sử dụng của Nhật Bản cũng tràn vào Việt Nam, có chất lượng chế
tạo cao hơn nhưng giá thành đắt và phụ tùng khan hiếm [7]. Máy kéo của
Nhật Bản nhập vào nước ta có cấu tạo phức tạp kiểu hiện đại thu nhỏ, những
máy này có độ bền, độ tin cậy cao và tiện nghi sử dụng tốt nhưng do khi nhập
vào nước ta thường là máy kéo cũ, không có máy công tác kèm theo cũng như
phụ tùng thay thế và giá bán tương đối cao, không có tài liệu hướng dẫn sử
dụng và dịch vụ sau bán hàng (bảo hành, cung cấp thiết bị phụ tùng …) nên
không phù hợp với hoàn cảnh và khả năng công nghệ chế tạo của ngành công
nghiệp nước ta hiện nay [11].
5
Tuy rằng ngành chế tạo máy của nước ta có rất nhiều cố gắng, nhưng
hầu hết các máy kéo nhỏ chế tạo trong nước đều là sao chép mẫu của Trung
Quốc, Nhật Bản ra đời cách đây nhiều thập kỷ, đơn điệu về mẫu mã và lạc
hậu về tính năng kỹ thuật. Ngay cả việc sao chép mẫu cũng chưa có căn cứ
khoa học đầy đủ để có được những mẫu máy phù hợp với điều kiện sử dụng ở
nước ta [7]. Để phát huy năng lực của máy móc đòi hỏi ngành chế tạo máy ở
nước ta phải tập trung đầu tư nghiên cứu thiết kế, cải tiến, đổi mới quy trình
công nghệ để tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn phù hợp với điều kiện sản
xuất thực tế. Các máy kéo cỡ nhỏ được chế tạo trong nước chủ yếu ở Nhà
máy cơ khí nông nghiệp Hà Tây kết hợp với Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo
và Nhà máy diezel Sông Công. Việc sử dụng và nghiên cứu các loại máy kéo
ở nước ta đã đạt được những kết quả nhất định. Máy kéo công suất nhỏ đã và
đang dần trở thành nguồn động lực quan trọng chủ yếu trong sản xuất nông
nghiệp ở nước ta.
Cả nước hiện có khoảng 1300 cơ sở chuyên sản xuất, kinh doanh các
loại máy kéo, máy nông nghiệp và thiết bị cơ khí phục vụ nông nghiệp; 1218
cơ sở chuyên sửa chữa, bảo dưỡng, bảo hành máy kéo, thiết bị cơ khí, nhưng
nhìn chung vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu, trong khi đó lượng máy nhập
khẩu còn thấp. Số lượng máy kéo các loại có khoảng 300.000 chiếc, tổng
công suất 3,5 triệu mã lực trong đó đa phần là máy kéo 2 bánh dưới 15 mã lực
(75,3%), máy kéo bốn bánh 15-35 mã lực (15,2%), máy kéo trên 35 mã lực
chỉ chiếm 9,5%.
Theo dự báo của Viện cơ điện và chế biến nông sản, nhu cầu máy kéo
từ 50 CV trở lên bình quân hàng năm là 3000-3200 chiếc/năm, máy kéo từ 8- 20CV là 8000-8200 chiếc/năm để đạt được mục tiêu về cơ giới hoá. Hiện tại, Việt Nam không có năng lực sản xuất máy kéo từ 50 CV trở lên. Nhóm máy
kéo 4 bánh 18-20CV đang phải nhập khẩu. Hiện có một số cơ sở đang dự kiến
triển khai các dự án láp ráp (phụ tùng nhập) với sản lượng khoảng 1400
chiếc/năm, (chủ yếu dự án liên doanh của VEAM với DAEDONG -Hàn Quốc
6
có công suất 1200 chiếc/năm đặt tại Cầu Diễn - Hà Nội. Nhóm máy kéo hai
bánh cỡ 6-8-12CV nhu cầu sẽ rất lớn và ổn định, khoảng 7000 chiếc/năm.
Tuy nhiên, mặc dù hiện nay sản xuất trong nước đã đáp ứng được khoảng
60% nhu cầu (50% do VEAM cung cấp, còn lại do địa phương sản xuất). Để
có thể đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp mục tiêu
đến năm 2010 ngành cơ khí nông nghiệp cần đáp ứng được 80% nhu cầu cơ
giới hoá các khâu sản xuất nông nghiệp. Như vậy, nhu cầu cho việc cơ giới
hoá các khâu trong sản xuất nông nghiệp là rất lớn, tạo ra một thị trường đầy
triển vọng cho ngành cơ khí nông nghiệp trong nước phát triển nếu được đầu
tư đúng hướng, đúng trọng điểm [23]. 1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu và áp dụng máy kéo nông nghiệp vào
việc vận xuất gỗ nhỏ rừng trồng
Vận xuất gỗ là quá trình di chuyển cây gỗ từ nơi chặt hạ về tập trung ở
bãi gỗ ven đường hoặc kho gỗ I rồi từ đó gỗ được vận chuyển đến một nơi
tiêu thụ nào đấy. Đây là khâu khó khăn nhất, nặng nhọc và phức tạp nhất
trong dây chuyền công nghệ khai thác gỗ. Nó ảnh hưởng quyết định đến số
lượng và chất lượng gỗ sau khi chặt hạ và ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ cây
con cũng như đất rừng. Chính vì đặc điểm và tầm quan trọng như vậy nên đã
có nhiều nghiên cứu về công nghệ đặc biệt là về máy móc thiết bị trong khâu
sản xuất này. Các máy kéo dùng trong vận xuất gỗ rất đa dạng, song có thể phân chia
thành hai nhóm chính: máy kéo xích và máy kéo bánh hơi. Các loại máy kéo
vận xuất bánh hơi có những ưu điểm nổi trội so với máy kéo xích cùng cỡ. Chúng có khối lượng riêng nhỏ hơn, chi phí nhiên liệu cho 1 m3 gỗ vận xuất ít
hơn, tuổi thọ của bộ phận di động cao hơn 2-3 lần, chúng yêu cầu chi phí sử
dụng thấp hơn, máy kéo bánh hơi có tốc độ lớn hơn, do vậy cho năng suất cao
hơn. Ngoài ra máy kéo bánh hơi ít phá hại cây con và đất rừng hơn máy kéo
xích. Do có những ưu điểm như vậy nên máy kéo bánh hơi được sử dụng
ngày càng rộng rãi và chiếm ưu thế so với máy kéo xích. Các máy kéo bánh