Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu động lực học của xe chữa cháy rừng đa năng
PREMIUM
Số trang
125
Kích thước
1.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1096

Nghiên cứu động lực học của xe chữa cháy rừng đa năng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

Nguyễn Xã Hội

Nghiên cứu động lực học của xe

chữa cháy rừng đa năng

Chuyên ngành: Kỹ thuật cơ khí

Mã số: 62520103

2013

2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của con người và của xã hội, là nguồn sinh

thủy cho sông suối, các hồ thủy điện, điều hòa không khí…Hiện nay nạn cháy rừng

đang là một thảm họa gây ra nhiều thiệt hại rất lớn về môi trường sinh thái như tiêu

diệt hệ thực vật, hệ động vật, gây ra xói mòn đất. Cháy rừng còn làm ảnh hưởng đến

đời sống xã hội của con người. Trong những năm qua, hàng loạt vụ cháy rừng lớn

đã xảy ra trên phạm vi cả nước như vụ cháy rừng ở U Minh Hạ ngày 4/4/2007, vụ

cháy rừng tại vườn quốc gia Hoàng Liên (Lào Cai) làm thiệt hại khoảng 1.700 ha

rừng…Theo thống kê của Cục kiểm lâm năm 2010 cả nước có 49 khu vực trên tổng

số 73 khu vực rừng đã xẩy ra 880 vụ cháy, tăng 552 vụ, gần gấp 3 lần so với năm

2009, làm thiệt hại hơn 5668 ha rừng. Số vụ cháy rừng xẩy ra chủ yếu là ở các tỉnh

miền núi phía bắc và Đông Nam bộ. Riêng Hà Nội, trong năm 2010 xẩy ra 21 vụ

cháy rừng làm thiệt hại trên 25 ha rừng. Năm 2012 cả nước xẩy ra 155 vụ cháy rừng

làm thiệt hại hàng trăm ha rừng. Đầu năm 2013 cũng đã xẩy ra nhiều vụ cháy rừng

nghiêm trọng, như các vụ cháy rừng ở Gia Lai: Ngày 19/2/2013 đã xẩy ra cháy và

làm thiêu rụi 270 ha rừng, ngày 12/3/2013 lại xẩy ra 3 vụ cháy. Như vậy chưa đầy 1

tháng xẩy ra 4 vụ cháy rừng làm thiệt hại trên 400 ha rừng. Chỉ trong tháng 5/2013

cả nước đã xẩy ra 21 vụ cháy rừng làm thiệt hại 88 ha rừng và tính đến hết tháng

6/2013 cả nước đã có 845 ha rừng bị cháy.

Trên thế giới hàng năm cũng xẩy ra hàng nghìn vụ cháy rừng gây ra nhiều

thiệt hại về tài sản và con người. Vì vậy để chữa cháy rừng đạt được hiệu quả thì

cần phải trang bị các thiết bị chữa cháy rừng cần thiết. Một số nước trên thế giới

đều được trang bị các trang thiết bị chữa cháy rừng vừa phong phú về chủng loại,

vừa hiện đại, còn ở Việt Nam các thiết bị chữa cháy rừng còn rất thô sơ và chưa đáp

ứng được yêu cầu chữa cháy rừng. Chính vì vậy mà việc quan tâm, chú trọng đầu tư

nghiên cứu, ứng dụng các kỹ thuật phòng chống và thiết kế chế tạo các thiết bị

chuyên dụng để chữa cháy rừng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do cháy

rừng gây ra là một việc làm hết sức cấp thiết.

3

Xuất phát từ những lý do, trên Bộ khoa học và Công nghệ đã giao cho trường

Đại học Lâm nghiệp chủ trì thực hiện đề tài: " Nghiên cứu công nghệ và thiết kế chế

tạo các thiết bị chuyên dụng chữa cháy rừng", mã số KC07.13/06-10. Kết quả của

đề tài đã thiết kế chế tạo xe chữa cháy rừng đa năng, bước đầu qua khảo nghiệm đã

có thể chữa cháy rừng được trong những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên thiết bị vẫn

còn một số tồn tại cần phải nghiên cứu giải quyết đó là:

Khi xe hoạt động chữa cháy trong khu rừng không có đường, dưới tác động

của các mấp mô mặt đất rừng, các vật cản trên đường đi, tác động của các hệ thống

công tác chữa cháy trên xe làm cho xe dao động rất lớn, dao động này ảnh hưởng

đến ổn định, độ bền của các chi tiết trên xe và chất lượng của các hệ thống chữa

cháy của xe.

Xe chữa cháy rừng đa năng là thiết bị mới được nghiên cứu cải tiến, chế tạo

dựa trên nền xe có sẵn, các công trình nghiên cứu về động lực học của loại xe này

còn hạn chế. Để có cở sở lý thuyết cho việc hoàn thiện xe chữa cháy rừng đa năng,

cần thiết phải tiến hành nghiên cứu động lực học trong quá trình làm việc của xe. Vì

vậy việc nghiên cứu động lực học của xe chữa cháy rừng đa năng là cấp thiết để tìm

được chế độ làm việc hợp lý, hoàn thiện kết cấu và từ đó tăng hiệu quả sử dụng cho

xe khi hoạt động chữa cháy trong rừng.

Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn và thực hiện đề tài:

"Nghiên cứu động lực học của xe chữa cháy rừng đa năng"

2. Mục đích nghiên cứu

Xác định quy luật ảnh hưởng của một số yếu tố đến các chỉ tiêu động lực học

của xe chữa cháy rừng đa năng khi hoạt động trong rừng, đồng thời xác định được

chế độ làm việc hợp lý để sử dụng xe an toàn và hiệu quả.

3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là động lực học của xe chữa cháy rừng đa

năng, sản phẩm của đề tài trọng điểm cấp Nhà nước “ Nghiên cứu công nghệ và

thiết kế chế tạo các thiết bị chuyên dụng chữa cháy rừng” mã số KC 07.13/06 – 10,

khi xe chuyển động trong rừng không có đường.

4

4. Phạm vi nghiên cứu của luận án

Nghiên cứu động lực học của xe chữa cháy rừng đa năng có nội dung rất lớn

cần có thời gian dài, trong nội dung luận án chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:

- Về nội dung nghiên cứu: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu về dao động

của xe chữa cháy rừng đa năng khi hoạt động chữa cháy trong rừng ở các chế độ

chuyển động bình ổn.

- Về thiết bị nghiên cứu: Luận án không nghiên cứu phần tính toán thiết kế

xe chữa cháy rừng đa năng, phần động cơ xe, mà chỉ tập trung nghiên cứu phần tồn

tại của xe, đó là ảnh hưởng dao động của xe đến ổn định, độ bền của một số chi tiết

trên xe và an toàn của xe khi hoạt động trong rừng chịu tác động mấp mô mặt đất

rừng và lực tác động do hệ thống cắt cỏ rác trên xe gây ra.

- Về đối tượng hoạt động của xe: là các khu rừng với độ mấp mô của mặt

đất rừng dưới dạng hàm ngẫu nhiên, hàm tuần hoàn.

- Về địa điểm nghiên cứu thực nghiệm: Luận án không có điều kiện thực

nghiệm trong các khu rừng ở nhiều địa phương khác nhau, mà chỉ chọn một số địa

điểm có địa hình với độ mấp mô mặt đất rừng đặc trưng nhất để nghiên cứu thực nghiệm.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

5.1. Ý nghĩa khoa học

- Luận án đã xây dựng được mô hình dao động trong không gian cho xe chữa

cháy rừng đa năng chịu lực kích động động học do độ mấp mô mặt đất rừng và lực

kích động động lực học do hệ thống cắt cỏ rác gây ra, từ đó đã thiết lập được hệ

phương trình vi phân dao động của xe. Kết quả nghiên cứu là những đóng góp mới

cho quá trình nghiên cứu dao động của các loại xe chữa cháy rừng khi hoạt động

trong rừng không có đường.

- Luận án đã thiết lập được chương trình để mô phỏng dao động của xe với

lực kích động động học do độ mấp mô mặt đất rừng là hàm ngẫu nhiên và lực kích

động động lực học do hệ thống cắt cỏ rác gây ra là hàm xung tuần hoàn, đã khảo sát

các yếu tố ảnh hưởng đến dao động. Kết quả khảo sát là đóng góp mới cho việc

5

xác định chế độ sử dụng hợp lý và là cơ sở khoa học để hoàn thiện xe chữa cháy rừng

đa năng.

- Luận án đã áp dụng các phương pháp thí nghiệm để đo và xác định: tọa độ

trọng tâm, mômen quán tính, độ cứng của lốp, của nhíp, độ mấp mô bề mặt đất

rừng, gia tốc dao động, góc lắc dọc và góc lắc ngang thân xe. Kết quả nghiên cứu

thực nghiệm là đóng góp mới cho việc nghiên cứu thực nghiệm các loại xe chữa

cháy rừng khi hoạt động trong rừng không có đường.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ được sử dụng cho việc xác định chế độ

làm việc hợp lý và hoàn thiện thiết kế chế tạo xe chữa cháy rừng đa năng trong dự

án sản xuất thử nghiệm cấp nhà nước " Hoàn thiện công nghệ và thiết kế chế tạo

một số thiết bị chuyên dụng chữa cháy rừng" mã số DAĐL- 2011/06.

6. Bố cục của luận án

Bố cục của luận án gồm các phần và các chương sau:

Mở đầu

Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên

Chương 2: Thiết lập mô hình nghiên cứu dao động xe chữa cháy rừng đa năng

Chương 3: Khảo sát dao động xe chữa cháy rừng đa năng

Chương 4: Nghiên cứu thực nghiệm

Kết luận và kiến nghị.

Chương 1

6

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan về xe chữa cháy rừng đa năng

Cháy rừng là một thảm họa thiên nhiên mà rất nhiều các quốc gia trên thế

giới đều phải quan tâm, chú trọng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các kỹ thuật phòng

cháy chữa cháy và chế tạo các thiết bị chuyên dụng để chữa cháy rừng nhằm hạn

chế đến mức thấp nhất thiệt hại do cháy rừng gây ra. Hiện nay ở Việt Nam các thiết

bị chữa cháy rừng còn chưa được đầu tư nhiều. Ngoài các phương pháp thủ công

như dùng cành cây, vỉ dập lửa, phát quang cây để tạo đường băng cản lửa, chúng ta

chỉ có một số ít thiết bị chữa cháy rừng thô sơ, số lượng cũng không phải nhiều và

hiện tại ở nước ta chưa có xe chữa cháy rừng như các nước trên thế giới.

Xe chữa cháy rừng đa năng là một sản phẩm của đề tài khoa học cấp Nhà

nước: “ Nghiên cứu công nghệ và thiết kế chế tạo các thiết bị chuyên dụng chữa

cháy rừng”, đề tài có sự tham gia của nhiều nhà khoa học ở các Viện nghiên cứu và

trường đại học khác nhau. Xe chữa cháy rừng đa năng đã góp phần bổ sung vào các

thiết bị chữa cháy rừng ở Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả chữa cháy rừng

trong phạm vi cả nước.

1.1.1. Cấu tạo của xe chữa cháy rừng đa năng

Xe chữa cháy rừng đa năng [30] được thiết kế trên nền xe Ural 4320 với

động cơ Điêzen có công suất 180 mã lực.

Hình 1.1: Xe chữa cháy rừng đa năng

Sơ đồ cấu tạo của xe chữa cháy rừng đa năng được thể hiện trên hình 1.2.

7

Hình 1.2: Sơ đồ cấu tạo của xe chữa cháy rừng đa năng

1- Hệ thống cắt cây; 2 - Xi lanh nâng hạ hệ thống cắt cây; 3 - Đĩa cưa cắt cây;

4 - Khung để nâng hạ hệ thống cắt cây; 5 - Giá đỡ lắp hệ thống chặt hạ cây; 6 - Xe

ôtô cơ sở; 7- Sàn xe; 8 - Xi lanh nâng hạ hệ thống cắt đất; 9 - Xi lanh nâng hạ hệ

thống cắt cỏ rác; 10 - Khung nâng hạ hệ thống cắt đất; 11- Buồng hút đất; 12 - Hệ

thống làm sạch cỏ rác; 13 - Ống hút đất; 14 - Ống nối để lắp ống phun đất;

15 - Vòi phun nước; 16 - Thùng chứa đất; 17 - Hệ thống hút đất; 18 - Téc chứa

nước; 19 - Lăng giá; 20 - Thanh bảo hiểm cabin; 21- Khớp quay lăng giá; 22 - Nắp téc

nước; 23 - Ống hút đất; 24 - Hệ thống phun đất; 25 - Bơm nước.

1.1.2. Nguyên lý hoạt động của xe chữa cháy rừng đa năng

21

8

Hệ thống cắt hạ cây được lắp ở phía trước xe bằng khớp quay, nâng lên hạ

xuống nhờ xi lanh thủy lực (2); đĩa cưa (3) quay được nhờ động cơ thủy lực có công

suất 8 kw, số vòng quay 3200 vg/ph. Hệ thống cắt hạ cây chuyển động tịnh tiến ra

phía trước nhờ xi lanh thủy lực và hệ thống ổ trượt, khi cắt cây xi lanh đẩy đĩa cưa

ăn vào gỗ.

Hệ thống cắt hạ cây có 3 đĩa cưa, đường kính dao cắt 500 mm; vận tốc cắt

80 m/s, tốc độ đẩy tối đa 12 m/ph.

Hệ thống cắt cỏ cỏ rác được lắp ở phía sau xe bằng khớp quay, chuyển động

nâng lên hoặc hạ xuống của hệ thống được thực hiện nhờ xi lanh thủy lực (9);

chuyển động quay của hệ thống cắt cỏ được thực hiện nhờ động cơ thủy lực. Hệ

thống này hoạt động theo nguyên tắc cắt dạng búa.

Hệ thống cắt cỏ rác tạo ra một băng trắng cản lửa với chiều rộng 2 m để đám

cháy không phát triển qua được. Hệ thống này có 40 dao; đường kính đĩa lắp dao

cắt 400 mm, chiều dài dao 125 mm; vận tốc cắt 25 m/s và được dẫn động bằng động

cơ thủy lực có công suất 30 kw; số vòng quay từ 800 1500 vg/ph.

Hệ thống cắt đất được nâng lên hạ xuống nhờ xi lanh (8) và được lắp ở gầm

xe; dao cắt đất của hệ thống hoạt động theo nguyên lý cắt đất ở dạng búa; buồng hút

đất (11) nối với thùng chứa đất (16) bằng đường ống. Đất do hệ thống cắt đất xới

lên và được bơm chân không hút lên theo đường ống đi vào thùng chứa (16) và rơi

xuống ống thổi. Bơm thổi (24) tạo áp lực khí rất lớn thổi đất đi ra ống (14), qua ống

dẫn dài 30 m phun vào đám cháy.

Động cơ dẫn động của hệ thống hút đất có công suất 8 kw; số vòng quay

3200 vg/ph. Hệ thống cắt đất có 4 dao cắt dạng hình búa với chiều dài dao 125 mm;

chiều rộng lưỡi dao 50 mm; vận tốc cắt 80 m/s; chiều sâu hố cắt 400 mm. Như vậy

xe chữa cháy rừng đa năng có thể lấy đất, cát ngay tại chỗ để dập tắt đám cháy.

9

Bơm nước và téc chứa nước được lắp trên sàn xe; bơm nước hút nước ở dưới

ao hồ, sông suối vào trong téc chứa nước, téc nước có dung tích 5 m3

. Khi chữa

cháy thì bơm nước hút nước ở trong téc chứa đẩy ra ống dẫn nước và được phun ra

từ lăng giá.

Ngoài ra, trên xe chữa cháy rừng đa năng còn trang bị 5 cuộn vòi chữa

cháy, mỗi cuộn dài 20 m. Khi chữa cháy ta có thể triển khai phun nước từ bơm chữa

cháy qua các cuộn vòi chữa cháy này. Với các thiết bị chữa cháy như trên đã góp

phần vào công việc chữa cháy rừng, hạn chế hậu quả do cháy rừng gây ra.

Khi đám cháy xảy ra, người lái xe nhanh chóng cho xe di chuyển đến nơi có

vị trí cháy, sử dụng hệ thống cắt cây phía trước, hệ thống làm sạch cỏ rác ở phía sau

để làm băng trắng cách ly, cô lập và khoanh vùng đám cháy, hoặc sử dụng hệ thống

cắt đất - hút đất và phun đất vào đám cháy để dập tắt đám cháy. Ngoài ra, còn có thể

sử dụng lăng giá trên xe để phun nước dập lửa.

Khi sử dụng hệ thống cắt cây, hệ thống cắt cỏ rác hoặc hệ thống cắt đất, hút

đất và phun đất thì người điều khiển hạ hệ thống đó xuống, khi không sử dụng thì

điều khiển xi lanh thủy lực nâng hệ thống đó lên.

Như vậy khi chữa cháy, ngoài việc cắt cây phía trước để di chuyển xe đến

đám cháy, xe chữa cháy rừng đa năng có thể đào đất phun vào đám cháy, phun nước

vào đám cháy, cắt cỏ rác để tạo băng cản lửa. Trong phạm vi của luận án chỉ xét đến

trường hợp xe chữa cháy rừng đa năng vừa di chuyển, vừa cho cơ cấu cắt cỏ rác làm

việc, không xét đến các trường hợp các thiết bị chữa cháy khác cùng hoạt động.

1.1.3. Đặc tính kỹ thuật của xe chữa cháy rừng đa năng

Xe chữa cháy rừng đa năng là thiết bị được tích hợp nhiều công nghệ chữa

cháy rừng trên xe, với nhiều hệ thống công tác cùng hoạt động khi chữa cháy rừng

như hệ thống chữa cháy bằng nước, gió, đất; hệ thống cắt cây bụi, cắt cỏ rác.

Đặc tính kỹ thuật của xe được ghi ở bảng 1.1.

Bảng 1.1. Đặc tính kỹ thuật của xe chữa cháy rừng đa năng

10

TT Đặc tính kỹ thuật Đơn vị

tính

Giá trị xác

định

I. Thông số chung của thiết bị

1 Công suất xe ô tô mã lực 180

2 Tốc độ dập lửa m/phút 12

3 Chiều cao ngọn lửa được dập tắt m 9

4 Tốc độ di chuyển trên đường lâm nghiệp km/h 25

5 Độ dốc dọc thiết bị di động được Độ 160

8

6 Độ dốc ngang thiết bị di động được Độ ≤ 60

47’

II. Hệ thống chữa cháy bằng nước

1 Dung tích téc nước m

3

5,0

2 Lưu lượng máy bơm chữa cháy m

3

/h 30

3 Chiều dài vòi chữa cháy m 100

III. Hệ thống chữa cháy bằng sức gió

1 Lưu lượng quạt gió m

3

/phút 104

2 Vận tốc không khí miệng ống thổi m/s 65

3 Chiều dài ống thổi không khí m 35

IV. Hệ thống phun đất cát

1 Khối lượng đất cát phun vào đám cháy kg/phút 45

2 Chiều dài ống phun đất cát m 35

V. Hệ thống cắt cây, làm băng cản lửa

1 Tốc độ cắt cây, làm sạch cỏ rác làm băng cản lửa km/h 10

2 Đường kính cây lớn nhất cắt được cm 25

1.1.4. Những tồn tại của xe chữa cháy rừng đa năng

Xe chữa cháy rừng đa năng đã được sử dụng ở một số địa phương như Công

ty lâm nghiệp Đắc Tô, Kon Tum, kết quả chữa cháy rừng cho thấy năng suất và

hiệu quả chữa cháy cao, phù hợp với điều kiện địa hình Tây nguyên, song trong quá

11

trình chữa cháy rừng ngoài thực tế cho thấy xe này còn một số tồn tại cần phải

nghiên cứu giải quyết sau đây:

- Khi xe chạy với tốc độ cao điều kiện mấp mô mặt đất rừng lớn thì dao động

của xe lớn, từ đó làm cho xe mất ổn định, hiệu quả làm việc của một số hệ thống

công tác trên xe rất thấp không đáp ứng được yêu cầu.

- Khi dao động của xe lớn thì hệ thống cắt cây không thể cắt được, vì mạch

cắt bị ảnh hưởng, xe rất khó hoạt động, để khắc phục tồn tại này người lái xe cho xe

dừng lại rồi mới cho hệ thống cắt cây hoạt động, song khi xe dừng lại thì năng suất

chữa cháy rừng thấp.

- Dao động của xe lớn ảnh hưởng đến hệ thống lái của xe, từ đó ảnh hưởng

đến an toàn trong quá trình sử dụng xe.

1.2. Tình hình nghiên cứu dao động ôtô, máy kéo trên thế giới và ở Việt Nam

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về dao

động của ôtô và máy kéo, sau đây là một số công trình đặc trưng:

1.2.1. Tình hình nghiên cứu dao động ôtô, máy kéo trên thế giới

Công trình của Mitschke M. [38] đã nghiên cứu về dao động của ôtô du lịch,

mô hình dao động được xem xét ở các yếu tố kết cấu có ảnh hưởng đến dao động và

tối ưu hệ thống treo.

Công trình nghiên cứu của Muller H. [40] đã đưa ra mô hình không gian mô

tả tất cả các loại dao động của máy kéo bánh hơi. Theo [40], một máy kéo có thể có

7 bậc tự do dao động thẳng đứng, dao động xoay quanh trục đứng, dao động ngang,

dao động xoay quanh trục ngang, dao động dọc, dao động xoay quanh trục dọc và

dao động liên kết xoay quanh trục cân bằng.Tác giả đã xây dựng các mô hình tính

toán tải trọng ở các cầu chủ động của máy kéo và ôtô trong nông nghiệp khi vượt

qua vật cản có kích thước lớn.

Trong công trình của Vogel F. [42], tác giả đã nghiên cứu một số tính chất

động lực học của một liên hợp máy cày khi lực kéo và tải trọng thẳng đứng dao

động. Công trình nghiên cứu của tác giả đã xác định các đặc trưng biên độ, tần số

của các thông số làm việc như tốc độ quay của động cơ, độ trượt, tốc độ chuyển

12

động, mômen chủ động của bánh xe, tải trọng lên cầu sau và lực kéo của máy kéo.

Với một mô hình dao động liên kết tính đến tính chất đàn hồi, cản của hệ thống

truyền lực và bánh xe, mômen quán tính của các phần tử chuyển động, sự dao động

của lực kéo và tác động qua lại giữa bánh xe và đất, tác giả đã chỉ ra rằng trong các

điều kiện hoạt động nhất dịnh, sự dao động của lực kéo gây ảnh hưởng lớn hơn so

với sự ảnh hưởng của tải trọng thẳng đứng đến một số tính chất động lực học của

máy. Mô hình nghiên cứu này đã cho phép đánh giá một cách khái quát những tác

động của các yếu tố ảnh hưởng tới dao động của máy kéo khi cày đất. Tuy nhiên

công trình này chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu mô hình trong điều kiện gần như

tuyệt đối hóa các yếu tố ảnh hưởng, chưa có những thực nghiệm để chứng minh sự

đúng đắn của các giả thiết đưa ra.

Trong công trình nghiên cứu của Wendebom J. C. [43] bằng lý thuyết và

thực nghiệm, tác giả đã xây dựng mô hình nghiên cứu tính chất động lực học của

dao động thẳng đứng máy kéo, tác giả không quan tâm đến chuyển động quay và

các dao động khác. Do vậy công trình này cũng chưa đánh giá và thể hiện được đầy

đủ các tính chất động lực học của máy kéo cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới sự

chuyển động của máy kéo nói riêng và liên hợp máy nói chung.

Các công trình nghiên cứu của Antônốp Đ. A. [62], [63] đã xây dựng cơ sở

lý thuyết và tính toán ổn định chuyển động của ôtô nhiều cầu trong trường hợp

chuyển động dừng và chuyển động không dừng. Trong các công trình này, tác giả

chỉ xét đến các kích động động lực, chưa xét đến các ảnh hưởng động học do sự

mấp mô của mặt đường gây nên.

Công trình của Barski I. B. [65] đã nghiên cứu động lực học máy kéo. Tác

giả đã nghiên cứu đầy đủ động lực học của máy kéo bánh hơi, máy kéo bánh xích

và độ êm dịu chuyển động của máy kéo.

Công trình nghiên cứu của Varava V. I. [70] đã lập mô hình nghiên cứu dao

động thẳng đứng của máy kéo trang bị cơ cấu ngoạm gỗ điều khiển bằng thủy lực

khi vận xuất gỗ theo phương pháp chở gỗ. Công trình đã nghiên cứu xác định một

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!