Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đề Xuất Phương Án Quy Hoạch Phát Triển Lâm Nông Nghiệp Tại Xã Hải Vân Huyện Như Thanh Tỉnh Thanh Hóa
PREMIUM
Số trang
91
Kích thước
725.0 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1700

Nghiên Cứu Đề Xuất Phương Án Quy Hoạch Phát Triển Lâm Nông Nghiệp Tại Xã Hải Vân Huyện Như Thanh Tỉnh Thanh Hóa

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GI¸o dôc vµ TẠO Bé n«ng nghiÖp vµ PTNT

TR­êng ®¹i häc l©m nghiÖp

L£ DUY H¦îNG

Nghiªn cøu §Ò XUÊT PH¦¥NG ¸N QUY HO¹CH PH¸T TRIÓN

L¢M N¤NG NGHIÖP T¹I X· H¶I V¢N, HUYÖN NH¦ THANH,

TØNH THANH HO¸

LUẬN VĂN THẠC Sü KHOA HỌC L©m nghiÖp

Hµ Néi, n¨m 2008

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá của nhân loại, nó là tư liệu sản xuất

không thể thiếu được đối với người nông dân. Đặc biệt là những quốc gia có nền

kinh tế phát triển chủ yếu từ nông lâm nghiệp, như Việt Nam, đất đai lại càng đóng

vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của nông thôn nói riêng và của đất nước

nói chung. Ngày nay trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nhu cầu về đất đai cho các ngành, các lĩnh vực sản xuất

ngày càng gia tăng và đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, gây áp lực đến nguồn tài

nguyên đất đai, làm cho nguồn tài nguyên đất đai ngày càng cạn kiệt. Do vậy quy

hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) có vai trò rất quan trọng giúp các ngành sắp xếp sử

dụng đất hợp lý, có hiệu quả, bảo vệ đất lâu bền đang là vấn đề quan tâm hàng đầu

của nước ta. Đặc biệt là QHSDĐ cho phát triển nông lâm nghiệp có vai trò rất quan

trọng, tạo ra những điều kiện cần thiết để tổ chức phát triển sản xuất, trên cơ sở áp

dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng vụ nâng cao hiệu quả sử dụng đất và

các giải pháp bảo vệ đất chống xói mòn, bảo vệ môi trường sinh thái.

Trong thời gian qua công tác QHSDĐ nông lâm nghiệp đã được Đảng và

Nhà nước quan tâm, các ngành, các cấp có nhiều nỗ lực trong công tác triển khai

thực hiện. Tuy nhiên những nội dung và phương pháp QHSDĐ, đặc biệt là cấp xã

vẫn còn một số tồn tại: - Công tác quy hoạch cấp xã trước đây hầu như chỉ được thực hiện bằng sự

áp đặt từ trên xuống, vai trò của người dân chưa được xem xét và tôn trọng, do đó

chưa quan tâm đến nhu cầu và nguyện vọng của người dân, chưa khai thác được

những kinh nghiệm và tham gia đóng góp ý kiến của người dân và cộng đồng. - QHSDĐ thường dựa trên chức năng của đất đai, lấy mục đích sử dụng đất

làm đối tượng quy hoạch sản xuất, chưa chú trọng tới việc phân tích đánh giá tiềm

năng thực tế tại cộng đồng. Từ đó việc xác định lựa chọn cơ cấu cây trồng vật nuôi,

2

các hệ thống biện pháp canh tác chưa hợp lý, dẫn đến năng suất, chất lượng chưa

cao, đồng thời việc bảo vệ môi trường sinh thái chưa thực sự ổn định và bền vững.

Hải Vân là một xã miền núi của huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hoá và là một

xã nằm trong vùng đệm của vườn Quốc gia Bến En, đời sống của nhân dân còn

nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào SXNLN, kinh tế chậm phát triển, nông dân thiếu

kiến thức và nguồn vốn đầu tư cho sản xuất. Cán bộ và nhân dân lúng túng trong bố

trí phát triển sản xuất. Để giải quyết vấn đề này, công tác đầu tiên phải tìm ra được

một phương án QHSDĐ lâm nông nghiệp tối ưu, tạo tiền đề cho PTNLN, nhằm

nâng cao thu nhập và đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của nhân dân, đồng thời cung

cấp ngày một nhiều và lâu dài các sản phẩm hàng hoá cho thị trường, giảm áp lực

xâm nhập và tác động vào vườn Quốc gia Bến En.

Xuất phát từ những lý do trên, trong khuôn khổ một bản luận văn tốt nghiệp

với hy vọng góp phần nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn của công tác quy

hoạch phát triển SXNLN cấp xã và đề xuất được phương án phát triển SXNLN cho

địa bàn nghiên cứu, tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đề xuất phương án quy

hoạch phát triển lâm nông nghiệp tại xã Hải Vân, huyện Như Thanh, tỉnh

Thanh Hoá”.

3

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Đất đai gắn liền với đời sống và sinh hoạt của con người, nó có vai trò to lớn đối

với SXNLN và các ngành kinh tế nói chung. Tuy nhiên, hiện nay trước sức ép về dân

số tăng nhanh, nhu cầu của con người về mọi mặt ngày càng cao, làm cho các nguồn

tài nguyên cạn kiệt nhanh chóng, và làm cho trái đất ngày càng gần tới hơn khả năng

chịu đựng cuối cùng của nó.

Mất rừng đã dẫn đến các quy luật về thời tiết, khí hậu bị xáo trộn, hiện tượng

hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ khí quyển của trái đất ngày càng tăng, thiên tai lũ lụt,

hạn hán thường xuyên xảy ra trên diện rộng, làm cho đất đai bị xói mòn, rửa trôi,

bạc màu, diện tích sa mạc hoá ngày càng lớn,…làm ảnh hưởng trực tiếp tới đời

sống, sinh hoạt, sản xuất,… thậm chí đe doạ đến sự tồn tại của con người nói riêng

và làm ảnh hưởng tới sự sống của toàn cầu nói chung. Những ảnh hưởng và mất

mát này đang trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiều chính

sách, chủ trương, công trình, chương trình, dự án nghiên cứu nhằm giải quyết các

mối quan tâm đó, và đã và đang thu hút nhiều chuyên gia đầu ngành của các nước

trên thế giới cùng tham gia. 1.1 Trên thế giới

1.1.1 Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở khoa học

Từ những năm của thế kỷ 19 khoa học về đất đã được các nước phát triển bắt

đầu quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này liên tục phát

triển cả về số và chất lượng. Những thành tựu về phân loại đất và xây dựng bản đồ

đất được sử dụng làm cơ sở quan trọng cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai

một cách có hiệu quả. Các công trình nghiên cứu về qui hoạch sử dụng đất đều xuất

phát từ đòi hỏi thực tế khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của xã hội

loài người.

Hệ thống canh tác (Farming System) là sự bố trí một cách thống nhất và ổn

định các ngành trong nông trại, được quản lý bởi hộ gia đình trong môi trường tự

4

nhiên, sinh học và kinh tế xã hội, phù hợp với các mục tiêu mong muốn và nguồn

lực của hộ (Shaner, Philip và Schemmedli, 1984) [51].

Hệ thống canh tác bao gồm các nguồn lực (đất, lao động, vốn) được sử dụng

cho các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, nghề phụ để sản xuất các nông sản (lương

thực, nguyên liệu thô, tiền mặt) trong nông trại với điều kiện nhất định (Willem

C.Beet, 1990) [46]

Trên thế giới, mô hình sử dụng đất đầu tiên là du canh, chính là những hệ thống

nông nghiệp trong đó đất được phát quang để canh tác trong một thời gian ngắn hơn là

thời gian bỏ hóa, Cooklin (1957). Du canh được xem là phương thức canh tác cổ xưa

nhất, nó ra đời từ cuối thời kỳ đồ đá mới, khi con người đã tích luỹ được những kiến

thức ban đầu về địa phương. Tuy nhiên cho mãi đến gần đây du canh vẫn còn được vận

dụng ở một số nơi, như trên các rừng Vân sam ở Bắc Âu (Cox và Atkinss, 1979;

Russell, 1968; Ruddle và Manshard, 1981), mặc dù hạn chế ở nhiều mặt về môi trường

sinh thái, song phương thức này vẫn được sử dụng khá phổ biến ở các vùng nhiệt đới.

Tại Mỹ, bang Wiscosin đã ban hành đạo luật về sử dụng đất vào năm 1929,

tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin,

kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng lâm nghiệp, nông nghiệp và

nghỉ ngơi giải trí. Năm 1966, hội Đất học và nông dân học Mỹ cho ra đời chuyên

khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng QHSDĐ. Tại Đức, tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu “Khái niệm về sử dụng

đất khác nhau”, đây được coi là lý thuyết sinh thái về QHSDĐ dựa trên quan điểm

về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của

chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh.

Từ năm 1967 hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO

tổ chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và QHSDĐ. Các hội nghị này khẳng

định quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch các ngành sản xuất như nông,

lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến nhỏ,… cũng như quy hoạch cơ sở hạ tầng, đặc biệt

là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai.

5

Sự ra đời của các phương thức Taungya ở vùng nhiệt đới được đánh giá như

một dấu hiệu báo trước cho các phương thức sử dụng đất sau này (Nair, 1978) trước

tiên được Brandis vận dụng trong việc tái sinh rừng tếch từ cuối thế kỹ 19, sau đó đã

nhanh chóng được bổ sung hoàn thiện và phổ biến trên toàn thế giới với tên gọi chung

là phương thức nông lâm kết hợp (NLKH), được coi là hệ thống sử dụng đất có hiệu

quả cả về kinh tế và môi trường sinh thái. FAO (1990) thông báo đã có tới 117 quốc

gia trên thế giới áp dụng phương thức này.

Một trong những phương thức sử dụng đất có hiệu quả cao, bền vững ổn định

trên đất dốc đó là mô hình SALT (Sloping Agricultural Land Technology) đã được

Trung tâm đời sống nông thôn ở Bapstit Mindanao Philippin tổng kết, hoàn thiện và

phát triển từ giữa những năm 1970 đến nay [26]. Trong quá trình phát triển và hoàn

thiện cho đến năm 1992 đã có 4 mô hình tổng hợp về kỹ thuật canh tác nông nghiệp

bền vững trên đất dốc được các tổ chức quốc tế ghi nhận đã và đang áp dụng, đó là: - Mô hình SALT1 (Sloping Agricultural Land Technology) đây là mô hình

tổng hợp dựa trên cơ sở các biện pháp bảo vệ đất với sản xuất lương thực. Kỹ thuật

canh tác nông nghiệp trên đất dốc với cơ cấu 25% cây lâm nghiệp + 25% cây lưu

niên (nông nghiệp) + 50% cây nông nghiệp hàng năm. - Mô hình SALT2 (Simple Agro - Forest Technology) đây là mô hình kinh tế

nông, lâm, súc kết hợp kết hợp đơn giản với cơ cấu 40% nông nghiệp + 20% lâm

nghiệp + 20% chăn nuôi + 20% làm nhà ở và chuồng trại. - Mô hình SALT3 (Sustainable Agro - Forest Technology) kỹ thuật canh tác

bền vững. Cơ cấu sử dụng đất là 40% nông nghiệp + 60% lâm nghiệp, mô hình này

đòi hỏi đầu tư cao cả về nguồn lực vốn và kỹ thuật. - Mô hình SALT4 (Small Agro - Fruit Likelihood Technology) đây là mô

hình kỹ thuật sản xuất nông, lâm nghiệp kết hợp với cây ăn quả quy mô nhỏ. Cơ cấu

sử dụng đất 60% lâm nghiệp + 15% nông nghiệp + 25% cây ăn quả. Đây cũng là

mô hình đòi hỏi đầu tư cao cả về nguồn lực, vốn và kỹ thuật. Các mô hình canh tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc có sự phối hợp hài

hoà giữa cây nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc đều dựa trên cơ sở có sự

6

nghiên cứu phân bổ các loại đất đai cho các loại cây trồng vật nuôi một cách hợp lý,

khoa học nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất và bền vững nhất về mặt môi trường

sinh thái.

Kết quả tổng kết các tài liệu nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp tại địa

phương chỉ ra rất nhiều cách tiếp cận, nhưng tựu chung các phương pháp tiếp cận đi

theo hai hướng chính đó là: Tiếp cận từ trên xuống và tiếp cận từ dưới lên. Cách

tiếp cận từ trên xuống, ngày càng bộc lộ ra những hạn chế, kém hiệu quả khi không

có sự tham gia của cộng đồng; Cách tiếp cận từ dưới lên được hình thành khi các

nhà xã hội học chứng minh rằng “sự không thể thiếu được” vai trò cộng đồng nông

thôn trong quản lý tài nguyên cộng đồng Từ đó “Quy hoạch trên cơ sở cộng đồng”

bắt đầu xuất hiện.

Khi nghiên cứu các hệ thống canh tác năm 1990, FAO đã cho ra đời cuốn

“Phát triển hệ thống canh tác”[19]. Công trình đã khái quát phương pháp tiếp cận

nông thôn trước đây là phương pháp tiếp cận một chiều từ trên xuống, không phát

huy được tiềm năng nông trại và cộng đồng nông thôn. Qua đó chỉ ra phương pháp

tiếp cận mới, phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân, nhằm phát triển

các hệ thống nông trại trong cộng đồng nông thôn trên cơ sở bền vững.

1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến quy hoạch PTNLN cấp vi mô có

sự tham gia

Tại hội thảo quốc tế tại Việt Nam năm 1998 về vấn đề QHSDĐ cấp làng, bản

đã được FAO đề cập một cách khá chi tiết cả về mặt khái niệm lẫn sự tham gia

trong việc đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất cấp làng, bản [49].

Tại cuộc Hội thảo năm 1998 giữa trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam và

trường Tổng hợp kỹ thuật Dresden [48], vấn đề QHSDĐ có sự tham gia của người

dân đã được Holm Uibrig đề cập khá đầy đủ. Tài liệu đã phân tích về mối quan hệ

giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch rừng, vấn đề phát triển

nông thôn, QHSDĐ, phân cấp hạng đất và phương pháp tiếp cận mới trong QHSDĐ

Nội dung chủ yếu của quy trình QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp bao gồm:

7

- Sự tham gia của người dân trong hoạt động thực thi QHSDĐ và giao đất:

Đào tạo cán bộ và chuẩn bị; Hội nghị làng bản và chuẩn bị. - Điều tra ranh giới làng, khoanh vẽ đất đang sử dụng, điều tra rừng và xây

dựng bản đồ sử dụng đất. - Thu thập và phân tích số liệu. - QHSDĐ đai và giao đất. - Xác định đất canh tác nông nghiệp. - Sự tham gia của người dân trong hợp đồng hoặc khế ước và chuyển nhượng

đất nông, lâm nghiệp. - Mở rộng quản lý và sử dụng đất. - Kiểm tra và đánh giá.

Những tài liệu hướng dẫn trên là phương tiện tốt để tiến hành QHSDĐ cho

cấp xã theo phương pháp cùng tham gia.

1.1.3. Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới

Qua các tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm QHSDĐ trên thế giới có thể rút

ra kết luận sau: - Mặc dù có nhiều nghiên cứu, thử nghiệm về quy hoạch, phương pháp

chuyển giao sử dụng đất, song nhìn chung các phương pháp đều phục vụ mục tiêu

phát triển kinh tế, chưa thực sự quan tâm đến lợi ích của người nông dân. - Việt Nam có thể ứng dụng các thành tựu trên vào quy hoạch, nhưng phải

vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng cộng đồng

nông thôn. Quy hoạch phát triển SXNLN phải dựa trên nền tảng sử dụng đất, kết

hợp quy hoạch từ trên xuống bằng các định hướng chiến lược và ưu tiên phạm vi

vùng với nhu cầu cộng đồng thông qua quy hoạch phát triển và xây dựng kế hoạch

cấp thôn, bản. - Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác cần được vận dụng

về đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội và thể chế chính sách của Việt Nam. - Hệ thống canh tác trên đất dốc, quan điểm sử dụng đất bền vững là những

giải pháp quan trọng và là cơ sở cho quy hoạch cấp vi mô.

8

1.2. Ở Việt Nam

1.2.1. Những nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn

Quá trình sử dụng đất đã xuất hiện từ khi có phương thức canh tác lúa nước,

nhưng mãi đến thế kỷ 15 kinh nghiệm sử dụng đất mới bắt đầu được chú ý, trong

Vân Đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã khuyên nông dân áp dụng luân canh với cây họ

đậu để tăng năng suất cây lúa.

Vào đầu thế kỷ 18, Nguyễn Công Trứ đã cho dân quai đê lấn biển để lấy đất

canh tác lập nên huyện Tiền Hải – Thái Bình ngày nay.

Trong thời kỳ Pháp thuộc các công trình nghiên cứu đánh giá và QHSDĐ đã

được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu phát triển với quy mô rộng.

Từ năm 1955-1975, công tác điều tra phân loại đất đã được tổng hợp một cách

có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc, nhưng đến năm 1975 các số liệu nghiên cứu

về phân loại đất mới được thống nhất. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều

công trình nghiên cứu triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến,

1986; Đỗ Đình Sâm, 1994,...) Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên mới chỉ

dừng lại ở nghiên cứu cơ bản, thiếu những đề xuất cho việc sử dụng đất. Những thành

tựu về nghiên cứu đất đai trong các giai đoạn trên là cơ sở quan trọng, góp phần vào

việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả trong cả nước.

Công trình “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững” của Nguyễn Xuân Quát

(1996) [39] đã phân tích tình hình sử dụng đất đai cũng như mô hình sử dụng đất

tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt Nam, đồng thời

cũng bước đầu đề xuất tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô hình sử dụng đất

tổng hợp và bền vững.

Trong công trình “Đất rừng Việt Nam” [1], Nguyễn Ngọc Bình đã đưa ra

những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng dựa trên cơ sở những đặc điểm

cơ bản của đất rừng Việt Nam.

Về luân canh, tăng vụ, trồng xen, trồng gối vụ để sử dụng hợp lý đất đai đã

được nhiều tác giả như: Phạm Văn Chiến (1964), Bùi Huy Đáp (1977), Vũ Tuyên

Hoàng (1987), Lê Trọng Cúc (1971), Nguyễn Ngọc Bình (1987), đề cập tới việc lựa

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!