Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đề Xuất Phương Án Quy Hoạch Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Huyện Như Xuân Tỉnh Thanh Hóa Đến Năm 2020
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy hoạch là một trong những hoạt động rất quan trọng trong phát triển
kinh tế, xã hội nói chung và ngành kinh tế nói riêng, trong đó có nền sản xuất
nông - lâm nghiệp. Trong phát triển kinh tế, xã hội; công tác quy hoạch phải luôn
đi trước một bước. Trong quá trình biến động thường xuyên và liên tục của nền
kinh tế, công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội sẽ rất khó khăn nếu không có
định hướng cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch là căn cứ quan
trọng thể hiện sự nhất quán về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong một
thời gian tương đối dài và làm cơ sở để xây dựng kế hoạch hàng năm.
Đối với nước ta đất lâm nghiệp chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, do vậy
lâm nghiệp có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đối trượng sản
xuất kinh doanh của lâm nghiệp là tài nguyên rừng, bao gồm rừng và đất rừng.
Tác dụng của lâm nghiệp đối với nền kinh tế được xác định trên nhiều mặt,
không chỉ cung cấp lâm, đặc sản rừng mà còn có tác dụng phòng hộ sinh thái,
bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị khác từ
dịch vụ từ rừng. Trải qua nhều thế kỷ, tài nguyên rừng phải chịu nhiều sức ép tác
động như: Chiến tranh tàn phá, sự phát triển kinh tế, sự bùng nổ dân số và xu
hướng đô thị hoá dẫn đến mâu thuấn ngày càng gay gắt giữa con người và tài
nguyên đất, rừng. Việc khai thác và sử dụng đất nhằm đáp ứng nhu cầu lương
thực, sinh hoạt; bên cạnh sự yếu kém về quản lý, nhận thức về việc sử dụng đất
dẫn đến hàng triệu ha rừng bị mất, đất sa mạc và hoang mạc hoá, mất khả năng
canh tác, ảnh hưởng tới đời sống con người và làm mất cân bằng sinh thái.
Những bài học đó giúp cho con người nhận thức về giá trị sử dụng tài nguyên
rừng một cách có hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Để phát huy giá trị nhiều mặt của rừng chúng ta cần tiến hành quy hoạch
lâm nghiệp nhằm tạo bố cục hợp lý về mặt không gian, thời gian đối với tài
nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục kinh doanh, làm cơ sở cho việc lập
2
kế hoạch, định hướng cho sản xuất kinh doanh trong lâm nghiệp, đáp ứng nhu
cầu lâm sản cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời phát huy những tác dụng có lợi
khác của rừng. Do đặc điểm địa hình nước ta rất đa dạng, nhu cầu các địa
phương, các ngành kinh tế khác đối với lâm nghiệp cũng khác nhau nên việc quy
hoạch cho các cấp quản lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh,...và các mục đích sử
dụng rừng đang trở thành một đòi hỏi thực tế khách quan; nó là tiền đề vững
chắc cho bất kỳ giải pháp nào nhằm phát huy hết những tiềm năng to lớn, đa
dạng của tài nguyên rừng và các điều kiện kinh tế - xã hội khác, góp phần vào sự
phát triển bền vững, ổn định lâu dài ở địa phương và quốc gia. Điều đó chứng tỏ
việc sản xuất kinh doanh rừng có hiệu quả hay sử dụng nguồn tài nguyên theo
hướng bền vững, nhất thiết phải quy hoạch lâm nghiệp và công tác quy hoạch
lâm nghiệp cần phải được đi trước một bước là cơ sở cho việc lập kế hoạch, định
hướng trước khi hoạt động sản xuất kinh doanh lâm nghiệp khác diễn ra.
Như Xuân là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam tỉnh Thanh Hóa, có
diện tích tự nhiên 71.994,93 ha; trong đó: Diện tích đất quy hoạch để phát triển
lâm nghiệp là 52.563,06 ha, chiếm 73,01% diện tích tự nhiên. Địa hình của
huyện được chia làm 3 vùng rõ rệt là vùng núi cao, vùng đồi cao núi thấp và
vùng đồi núi thấp có xen kẽ các khe, sông, suối. Diện tích có rừng quy hoạch
cho lâm nghiệp là 45.457,84 ha, độ che phủ của rừng năm 2013 đạt 64%.
Trong những năm qua, mặc dù đã được các cấp, các ngành địa phương quan
tâm trong công tác quản lý bảo vệ rừng, tuy nhiên tình trạng chặt phá rừng
làm nương rẫy, khai thác rừng, cháy rừng vẫn còn sảy ra trên địa bàn làm suy
giảm cả về diện tích và chất lượng tài nguyên rừng, khả năng phòng hộ cung
cấp lâm sản phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện bị hạn
chế. Việc phát triển lâm nghiệp huyện Như Xuân có vị trí quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của toàn huyện và cho mục tiêu
phát triển bền vững, ổn định. Với vị trí phòng hộ đầu nguồn, điều tiết nguồn
3
nước, giữ môi trường cảnh quan, bảo tồn đa dạng sinh học và kinh tế thì vấn
đề quy hoạch phát triển rừng hợp lý là rất cần thiết.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, để góp phần bảo vệ phát triển tài nguyên
rừng bền vững và đưa sản xuất lâm nghiệp trở thành ngành kinh tế đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện cũng như cải
thiện điều kiệm môi trường sinh thái, việc thực hiện đề tài "Nghiên cứu đề xuất
phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hoá đến năm 2020” là rất cần thiết.
4
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức chung về quy hoạch
Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng đều là một hoạt
động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí tổ chức các hoạt động theo không gian và
thời gian một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu trong
tương lai.
1.2. Trên thế giới
1.2.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ một số nước trên thế giới
1.2.1.1. Quy hoạch vùng
Trần Hữu Viên [19]: Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin
về phân bố phát triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương
pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
C. Mác và P. Ăng-Ghen đã chỉ ra: "Mức độ phát triển lực lượng sản xuất
của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở chỗ sự phân công lao động của dân tộc
đó được phát triển đến mức độ nào”.
V.I. Lê - Nin đã viết: "Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự
nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố lực
lượng sản xuất”.
Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản
xuất ở một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định tiềm năng và tương lai
phát triển của vùng đó.
Như vậy sức lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên đã phân bố lực
lượng sản xuất hợp lý là một trong các điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất
lao động, tích luỹ nhiều của cải vật chất cho xã hội, không ngừng phát triển sản
xuất và văn hoá của mỗi quốc gia.
5
Dựa trên cơ sở học thuyết của C. Mác và P. Ăng - Ghen, V.I. Lê - Nin đã
nghiên cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hoá phát triển lực lượng sản xuất trong
xã hội xã hội Chủ nghĩa. Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác định theo các
nguyên tắc sau:
+ Sự phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên toàn lãnh thổ của đất
nước, nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động của tất cả các
vùng và quá trình tái sản xuất mở rộng.
+ Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của từng
địa phương.
+ Đưa các công ty chế biến đến gần nguồn nguyên liệu để hạn chế chi phí
vận chuyển.
+ Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện
nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
+ Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân
bố hợp lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện.
Trên cơ sở đó, tác giả tìm hiểu quy hoạch vùng ở một số nước trên thế giới như
sau:
a) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây:
* Mục đích của quy hoạch
- Sử dụng hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước.
- Bố trí hợp lý các hoạt đọng của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng.
Quy hoạch lãnh thổ đất nước phân thành các vùng.
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ.
+ Lãnh thổ thiên nhiên không có vùng nông thôn, sự tác động của con
người vào đây rất ít.
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, ít có sự can
thiệp của con người, thuận lợi cho kinh doanh về du lịch.
6
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và có sự
can thiệp của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn
nhưng có sự tác động của con người.
+ Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
* Nội dung của quy hoạch
Quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể hiện quy hoạch chi tiết các Liên
hiệp nông - công nghiệp và đồng thời giải quyết các vấn đề sau đây:
+ Cụ thể hóa, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
+ Phối hợp, hợp lý giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp với
mục đích liên kết theo ngành dọc.
+ Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng và sản xuất.
+ Tổ chức hợp lý mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp
trong phạm vi hệ thống nông thôn.
+ Bảo vệ môi trường thiên nhiên của vùng lãnh thổ, tạo điều kiện tốt cho
người lao động nghỉ ngơi, sinh hoạt.
b) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp:
Theo quan niệm chung của hệ thống các mô hình quy hoạch vùng, lãnh
thổ. M. Thenevin (M. Pierre Thenevin), một chuyên gia thống kê đã giới thiệu
một số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công ở miền Tây Nam nước
Cộng hoà Côte D’ivoire như sau:
Trong mô hình quy hoạch này, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực
đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội vùng, có quan hệ với các
vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là bài toán quy hoạch tuyến
tính có cấu trúc:
* Các hoạt động sản xuất
7
+ Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng
trọt công nghiệp với các mức thâm canh cường độ cao, thâm canh trung bình và
cổ điển (truyền thống).
+ Hoạt động khai thác tài nguyên rừng.
+ Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ thương mại....
* Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông -lâm nghiệp.
* Cân đối xuất nhập khẩu, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về
diện tích đất, nhân lực, tiêu thụ sản phẩm…
Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng
thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hoá trong điều kiện
thực tiễn của vùng, so sánh với các vùng xung quanh và nước ngoài.
c) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Thái Lan:
Công tác quy hoạch phát triển vùng được chú ý từ những năm 70 của thế
kỷ XX. Về hệ thống phân vị, quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: Quốc gia,
Vùng, á vùng hay Địa phương.
+ Vùng (Region) được coi như là một Á miền (Subdivision) của đất nước.
Đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương
diện khác nhau như bố trí dân cư, khí hậu, địa hình... Đồng thời vì lý do quản lý
nhà nước hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như đơn vị hành
chính hay đơn vị bầu cử.
+ Quy mô diện tích của vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của
đất nước. Thông thường vùng có diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất.
Sự phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ.
+ Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo
hai cách:
8
Thứ nhất: Sự bổ sung kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những
mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch vùng
được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng,
các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.
Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải có sự phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương.
1.2.1.2. Quy hoạch sử dụng đất
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế
Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu
khối lượng gỗ ngày càng tăng . Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương
của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa.
Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn
thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch
lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy
hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy.
Tai Châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ
vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm
1946, Jack.G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất với tên
"Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất". Đây là tài liệu đầu tiên đề cập
đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia
trước đây, nay là cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay
hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng
rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, tạp chí "East Afican Journal fof
Agricultue and Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng
Nam Châu Phi. Năm 1966, Hội đất học của Mỹ và Hội nông học Mỹ cho ra đời
9
chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng
trong quy hoạch sử dụng đất…v.v[12].
Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm
1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính. Trong
phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là các
bước chính trong quá trình quy hoạch [26].
Năm 1985, một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất
được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng
đất.
Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh
luật pháp. Tác giả đề nghị một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển
nhằm mục đích: Cung cấp chính sách và muc tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất
đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp với yêu cầu sử dụng theo quy trình
kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích
sản xuất cơ chế giám sát và cưỡng chế [29].
Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về công trình quy hoạch.
Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của
các cấp: Kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng
đồng ( xã, thôn). Ông còn đề xuất quy trình quy hoạch gồm 4 giai đoạn và 10
bước [25].
Những kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu Á, Châu
Phi và Nam Mỹ xác nhận rằng hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch là lập
kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương. Lung năm
1990 lần đầu tiên nghiên cứu đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác
cho quy hoạch sử dụng đất.
1.2.1.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
10
Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [9]: Đầu thế kỷ 18, phạm vị quy hoạch
lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc "Khoanh thu chặt luân chuyển '' có nghĩa là
đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ
khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện
tích. Phương thức này phục vụ cho phương phức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ
khai thác ngắn.
Sau cách mạng công nghiệp, vào đầu thế kỷ XIX phương thức kinh doanh
rừng chồi được thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai
thác dài. Và phương thức "Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho
phương thức "chia đều'' của Hartig, Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành nhiều
thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816
xuất hiện phương pháp phân kỳ lợi dụng của H. Cotta. Cotto chia chu kỳ khai
thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng
năm.
Sau đó phương pháp ''Bình quân thu hoạch'' ra đời. Quan điểm phương
pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn
đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ XIX xuất
hiện phương pháp ''Lâm phần kinh tế'' của Judeich, phương pháp này khác với
phương pháp "Bình quân thu hoạch '' về căn bản. Judeich cho rằng lâm phần nào
đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ đưa vào diện khai thác. Hai phương
pháp "Bình quân thu hoạch'' và "Lâm phần kinh tế '' chính là tiền đề của hai
phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau. Phương pháp
'' Bình quân thu hoạch '' và sau này là phương pháp "Cấp cuối '' chịu ảnh hưởng
của ''Lý luận rừng tiêu chuẩn'', có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về
tuổi cũng như diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích
khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở
các nước có nguồn tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp ''Lâm phần
11
kinh tế'' và hiện nay là phương pháp ''Lâm phần'' không căn cứ vào tuổi rừng mà
dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản
lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành
"Phương pháp kinh doanh lô'' và ''phương pháp kiểm tra''.
Năm 1929 bang Wiscosin đã tạo ra luật sử dụng đất đai trong đó có quy
định nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng
đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này xây dựng các diện tích
cho sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.
1.3. Ở Việt Nam
1.3.1. Quy hoạch sử dụng đất
Đaị hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra xúc tiến công tác điều tra cơ
bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiện cứu
chiến lược kinh tế, xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch
5 năm sau (1986- 1990).
Các tác giả: Phạm Văn Chiểu (1946); Bùi Huy Đáp (1977); Vũ Tuyên
Hoàng (1987); Lê Trọng Cúc (1971); Nguyễn Ngọc Bình (1987); Bùi Quang
Toản (1991) đã có nhiều công trình nghiên cứu về luân canh tăng vụ, trồng xen
canh, trồng gối vụ với mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai. Bên cạnh đó
những nghiên cứu lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi
phí Bắc Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến.
Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và
giao đất lâm nghiệp cấp xã do dự án đổi mới chiến lược phát triển rừng thực hiện
tại xã Tử Nê, xã Hang Kìa, xã Pà Cò thuộc tỉnh Hoà Bình. Một trong những bài
học rút ra được qua việc thực thi dự án là công tác quy hoạch sử dụng đất phải
được coi là một nội dụng chính và cần được thực hiện trước khi giao đất trên cơ
sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và
giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản và chính