Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đề Xuất Phương Án Quy Hoạch Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Huyện Như Xuân Tỉnh Thanh Hóa Đến Năm 2020
PREMIUM
Số trang
114
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1857

Nghiên Cứu Đề Xuất Phương Án Quy Hoạch Bảo Vệ Và Phát Triển Rừng Huyện Như Xuân Tỉnh Thanh Hóa Đến Năm 2020

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Quy hoạch là một trong những hoạt động rất quan trọng trong phát triển

kinh tế, xã hội nói chung và ngành kinh tế nói riêng, trong đó có nền sản xuất

nông - lâm nghiệp. Trong phát triển kinh tế, xã hội; công tác quy hoạch phải luôn

đi trước một bước. Trong quá trình biến động thường xuyên và liên tục của nền

kinh tế, công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội sẽ rất khó khăn nếu không có

định hướng cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch là căn cứ quan

trọng thể hiện sự nhất quán về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong một

thời gian tương đối dài và làm cơ sở để xây dựng kế hoạch hàng năm.

Đối với nước ta đất lâm nghiệp chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, do vậy

lâm nghiệp có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đối trượng sản

xuất kinh doanh của lâm nghiệp là tài nguyên rừng, bao gồm rừng và đất rừng.

Tác dụng của lâm nghiệp đối với nền kinh tế được xác định trên nhiều mặt,

không chỉ cung cấp lâm, đặc sản rừng mà còn có tác dụng phòng hộ sinh thái,

bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị khác từ

dịch vụ từ rừng. Trải qua nhều thế kỷ, tài nguyên rừng phải chịu nhiều sức ép tác

động như: Chiến tranh tàn phá, sự phát triển kinh tế, sự bùng nổ dân số và xu

hướng đô thị hoá dẫn đến mâu thuấn ngày càng gay gắt giữa con người và tài

nguyên đất, rừng. Việc khai thác và sử dụng đất nhằm đáp ứng nhu cầu lương

thực, sinh hoạt; bên cạnh sự yếu kém về quản lý, nhận thức về việc sử dụng đất

dẫn đến hàng triệu ha rừng bị mất, đất sa mạc và hoang mạc hoá, mất khả năng

canh tác, ảnh hưởng tới đời sống con người và làm mất cân bằng sinh thái.

Những bài học đó giúp cho con người nhận thức về giá trị sử dụng tài nguyên

rừng một cách có hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường.

Để phát huy giá trị nhiều mặt của rừng chúng ta cần tiến hành quy hoạch

lâm nghiệp nhằm tạo bố cục hợp lý về mặt không gian, thời gian đối với tài

nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục kinh doanh, làm cơ sở cho việc lập

2

kế hoạch, định hướng cho sản xuất kinh doanh trong lâm nghiệp, đáp ứng nhu

cầu lâm sản cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời phát huy những tác dụng có lợi

khác của rừng. Do đặc điểm địa hình nước ta rất đa dạng, nhu cầu các địa

phương, các ngành kinh tế khác đối với lâm nghiệp cũng khác nhau nên việc quy

hoạch cho các cấp quản lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh,...và các mục đích sử

dụng rừng đang trở thành một đòi hỏi thực tế khách quan; nó là tiền đề vững

chắc cho bất kỳ giải pháp nào nhằm phát huy hết những tiềm năng to lớn, đa

dạng của tài nguyên rừng và các điều kiện kinh tế - xã hội khác, góp phần vào sự

phát triển bền vững, ổn định lâu dài ở địa phương và quốc gia. Điều đó chứng tỏ

việc sản xuất kinh doanh rừng có hiệu quả hay sử dụng nguồn tài nguyên theo

hướng bền vững, nhất thiết phải quy hoạch lâm nghiệp và công tác quy hoạch

lâm nghiệp cần phải được đi trước một bước là cơ sở cho việc lập kế hoạch, định

hướng trước khi hoạt động sản xuất kinh doanh lâm nghiệp khác diễn ra.

Như Xuân là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam tỉnh Thanh Hóa, có

diện tích tự nhiên 71.994,93 ha; trong đó: Diện tích đất quy hoạch để phát triển

lâm nghiệp là 52.563,06 ha, chiếm 73,01% diện tích tự nhiên. Địa hình của

huyện được chia làm 3 vùng rõ rệt là vùng núi cao, vùng đồi cao núi thấp và

vùng đồi núi thấp có xen kẽ các khe, sông, suối. Diện tích có rừng quy hoạch

cho lâm nghiệp là 45.457,84 ha, độ che phủ của rừng năm 2013 đạt 64%.

Trong những năm qua, mặc dù đã được các cấp, các ngành địa phương quan

tâm trong công tác quản lý bảo vệ rừng, tuy nhiên tình trạng chặt phá rừng

làm nương rẫy, khai thác rừng, cháy rừng vẫn còn sảy ra trên địa bàn làm suy

giảm cả về diện tích và chất lượng tài nguyên rừng, khả năng phòng hộ cung

cấp lâm sản phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện bị hạn

chế. Việc phát triển lâm nghiệp huyện Như Xuân có vị trí quan trọng trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của toàn huyện và cho mục tiêu

phát triển bền vững, ổn định. Với vị trí phòng hộ đầu nguồn, điều tiết nguồn

3

nước, giữ môi trường cảnh quan, bảo tồn đa dạng sinh học và kinh tế thì vấn

đề quy hoạch phát triển rừng hợp lý là rất cần thiết.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, để góp phần bảo vệ phát triển tài nguyên

rừng bền vững và đưa sản xuất lâm nghiệp trở thành ngành kinh tế đóng vai trò

quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện cũng như cải

thiện điều kiệm môi trường sinh thái, việc thực hiện đề tài "Nghiên cứu đề xuất

phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Như Xuân, tỉnh

Thanh Hoá đến năm 2020” là rất cần thiết.

4

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Nhận thức chung về quy hoạch

Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng đều là một hoạt

động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí tổ chức các hoạt động theo không gian và

thời gian một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu trong

tương lai.

1.2. Trên thế giới

1.2.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ một số nước trên thế giới

1.2.1.1. Quy hoạch vùng

Trần Hữu Viên [19]: Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin

về phân bố phát triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương

pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

C. Mác và P. Ăng-Ghen đã chỉ ra: "Mức độ phát triển lực lượng sản xuất

của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở chỗ sự phân công lao động của dân tộc

đó được phát triển đến mức độ nào”.

V.I. Lê - Nin đã viết: "Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự

nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố lực

lượng sản xuất”.

Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản

xuất ở một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định tiềm năng và tương lai

phát triển của vùng đó.

Như vậy sức lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên đã phân bố lực

lượng sản xuất hợp lý là một trong các điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất

lao động, tích luỹ nhiều của cải vật chất cho xã hội, không ngừng phát triển sản

xuất và văn hoá của mỗi quốc gia.

5

Dựa trên cơ sở học thuyết của C. Mác và P. Ăng - Ghen, V.I. Lê - Nin đã

nghiên cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hoá phát triển lực lượng sản xuất trong

xã hội xã hội Chủ nghĩa. Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác định theo các

nguyên tắc sau:

+ Sự phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên toàn lãnh thổ của đất

nước, nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động của tất cả các

vùng và quá trình tái sản xuất mở rộng.

+ Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của từng

địa phương.

+ Đưa các công ty chế biến đến gần nguồn nguyên liệu để hạn chế chi phí

vận chuyển.

+ Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện

nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.

+ Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân

bố hợp lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện.

Trên cơ sở đó, tác giả tìm hiểu quy hoạch vùng ở một số nước trên thế giới như

sau:

a) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây:

* Mục đích của quy hoạch

- Sử dụng hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước.

- Bố trí hợp lý các hoạt đọng của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng.

Quy hoạch lãnh thổ đất nước phân thành các vùng.

+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ.

+ Lãnh thổ thiên nhiên không có vùng nông thôn, sự tác động của con

người vào đây rất ít.

+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, ít có sự can

thiệp của con người, thuận lợi cho kinh doanh về du lịch.

6

+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và có sự

can thiệp của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn

nhưng có sự tác động của con người.

+ Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.

* Nội dung của quy hoạch

Quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể hiện quy hoạch chi tiết các Liên

hiệp nông - công nghiệp và đồng thời giải quyết các vấn đề sau đây:

+ Cụ thể hóa, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.

+ Phối hợp, hợp lý giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp với

mục đích liên kết theo ngành dọc.

+ Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng và sản xuất.

+ Tổ chức hợp lý mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp

trong phạm vi hệ thống nông thôn.

+ Bảo vệ môi trường thiên nhiên của vùng lãnh thổ, tạo điều kiện tốt cho

người lao động nghỉ ngơi, sinh hoạt.

b) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp:

Theo quan niệm chung của hệ thống các mô hình quy hoạch vùng, lãnh

thổ. M. Thenevin (M. Pierre Thenevin), một chuyên gia thống kê đã giới thiệu

một số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công ở miền Tây Nam nước

Cộng hoà Côte D’ivoire như sau:

Trong mô hình quy hoạch này, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực

đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội vùng, có quan hệ với các

vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là bài toán quy hoạch tuyến

tính có cấu trúc:

* Các hoạt động sản xuất

7

+ Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng

trọt công nghiệp với các mức thâm canh cường độ cao, thâm canh trung bình và

cổ điển (truyền thống).

+ Hoạt động khai thác tài nguyên rừng.

+ Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ thương mại....

* Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông -lâm nghiệp.

* Cân đối xuất nhập khẩu, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về

diện tích đất, nhân lực, tiêu thụ sản phẩm…

Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng

thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hoá trong điều kiện

thực tiễn của vùng, so sánh với các vùng xung quanh và nước ngoài.

c) Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Thái Lan:

Công tác quy hoạch phát triển vùng được chú ý từ những năm 70 của thế

kỷ XX. Về hệ thống phân vị, quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: Quốc gia,

Vùng, á vùng hay Địa phương.

+ Vùng (Region) được coi như là một Á miền (Subdivision) của đất nước.

Đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương

diện khác nhau như bố trí dân cư, khí hậu, địa hình... Đồng thời vì lý do quản lý

nhà nước hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như đơn vị hành

chính hay đơn vị bầu cử.

+ Quy mô diện tích của vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của

đất nước. Thông thường vùng có diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất.

Sự phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ.

+ Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo

hai cách:

8

Thứ nhất: Sự bổ sung kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những

mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch vùng

được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.

Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng,

các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.

Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,

phải có sự phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương.

1.2.1.2. Quy hoạch sử dụng đất

Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế

Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu

khối lượng gỗ ngày càng tăng . Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương

của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa.

Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn

thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch

lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy

hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy.

Tai Châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ

vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm

1946, Jack.G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất với tên

"Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất". Đây là tài liệu đầu tiên đề cập

đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia

trước đây, nay là cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay

hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng

rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, tạp chí "East Afican Journal fof

Agricultue and Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng

Nam Châu Phi. Năm 1966, Hội đất học của Mỹ và Hội nông học Mỹ cho ra đời

9

chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng

trong quy hoạch sử dụng đất…v.v[12].

Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm

1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính. Trong

phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là các

bước chính trong quá trình quy hoạch [26].

Năm 1985, một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất

được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng

đất.

Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh

luật pháp. Tác giả đề nghị một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển

nhằm mục đích: Cung cấp chính sách và muc tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất

đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp với yêu cầu sử dụng theo quy trình

kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích

sản xuất cơ chế giám sát và cưỡng chế [29].

Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về công trình quy hoạch.

Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của

các cấp: Kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng

đồng ( xã, thôn). Ông còn đề xuất quy trình quy hoạch gồm 4 giai đoạn và 10

bước [25].

Những kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu Á, Châu

Phi và Nam Mỹ xác nhận rằng hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch là lập

kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương. Lung năm

1990 lần đầu tiên nghiên cứu đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác

cho quy hoạch sử dụng đất.

1.2.1.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng

10

Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [9]: Đầu thế kỷ 18, phạm vị quy hoạch

lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc "Khoanh thu chặt luân chuyển '' có nghĩa là

đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ

khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện

tích. Phương thức này phục vụ cho phương phức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ

khai thác ngắn.

Sau cách mạng công nghiệp, vào đầu thế kỷ XIX phương thức kinh doanh

rừng chồi được thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai

thác dài. Và phương thức "Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho

phương thức "chia đều'' của Hartig, Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành nhiều

thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816

xuất hiện phương pháp phân kỳ lợi dụng của H. Cotta. Cotto chia chu kỳ khai

thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng

năm.

Sau đó phương pháp ''Bình quân thu hoạch'' ra đời. Quan điểm phương

pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn

đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ XIX xuất

hiện phương pháp ''Lâm phần kinh tế'' của Judeich, phương pháp này khác với

phương pháp "Bình quân thu hoạch '' về căn bản. Judeich cho rằng lâm phần nào

đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ đưa vào diện khai thác. Hai phương

pháp "Bình quân thu hoạch'' và "Lâm phần kinh tế '' chính là tiền đề của hai

phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau. Phương pháp

'' Bình quân thu hoạch '' và sau này là phương pháp "Cấp cuối '' chịu ảnh hưởng

của ''Lý luận rừng tiêu chuẩn'', có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về

tuổi cũng như diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích

khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở

các nước có nguồn tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp ''Lâm phần

11

kinh tế'' và hiện nay là phương pháp ''Lâm phần'' không căn cứ vào tuổi rừng mà

dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản

lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành

"Phương pháp kinh doanh lô'' và ''phương pháp kiểm tra''.

Năm 1929 bang Wiscosin đã tạo ra luật sử dụng đất đai trong đó có quy

định nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng

đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này xây dựng các diện tích

cho sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.

1.3. Ở Việt Nam

1.3.1. Quy hoạch sử dụng đất

Đaị hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra xúc tiến công tác điều tra cơ

bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiện cứu

chiến lược kinh tế, xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch

5 năm sau (1986- 1990).

Các tác giả: Phạm Văn Chiểu (1946); Bùi Huy Đáp (1977); Vũ Tuyên

Hoàng (1987); Lê Trọng Cúc (1971); Nguyễn Ngọc Bình (1987); Bùi Quang

Toản (1991) đã có nhiều công trình nghiên cứu về luân canh tăng vụ, trồng xen

canh, trồng gối vụ với mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai. Bên cạnh đó

những nghiên cứu lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi

phí Bắc Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến.

Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và

giao đất lâm nghiệp cấp xã do dự án đổi mới chiến lược phát triển rừng thực hiện

tại xã Tử Nê, xã Hang Kìa, xã Pà Cò thuộc tỉnh Hoà Bình. Một trong những bài

học rút ra được qua việc thực thi dự án là công tác quy hoạch sử dụng đất phải

được coi là một nội dụng chính và cần được thực hiện trước khi giao đất trên cơ

sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và

giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản và chính

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!