Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đề Xuất Nội Dung Cơ Bản Quy Hoạch Lâm Nghiệp Huyện Yên Lập Tỉnh Phú Thọ Giai Đoạn 2011 2020
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
NGUYỄN VĂN BẢY
NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT NỘI DUNG CƠ BẢN
QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP HUYỆN YÊN LẬP - TỈNH PHÚ THỌ,
GIAI ĐOẠN 2011-2020
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Hà Nội, 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
NGUYỄN VĂN BẢY
NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT NỘI DUNG CƠ BẢN
QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP HUYỆN YÊN LẬP - TỈNH PHÚ THỌ,
GIAI ĐOẠN 2011 - 2020
Chuyên ngành lâm học
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ BẢO LÂM
Hà Nội, 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá, không những cung cấp gỗ và các
loại lâm sản khác, mà nó còn có giá trị bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái,
tạo cảnh quan du lịch, cung cấp oxy, và hấp thụ CO2, tham gia vào việc giữ
cán cân oxy làm giảm lượng CO2 trong thành phần của khí quyển, góp phần
làm giảm hiệu ứng nhà kính cho trái đất. Với những tác động tiêu cực, khó
lường của sự biến đổi khí hậu toàn cầu người ta càng thấy rõ hơn vai trò và ý
nghĩa to lớn của rừng. Hiện nay vai trò của rừng nói riêng hay ngành Lâm
nghiệp nói chung không những được đánh giá ở khía cạnh kinh tế thông qua
những sản phẩm trước mắt thu được từ rừng mà còn tính đến những lợi ích to
lớn về xã hội, môi trường mà rừng và nghề rừng mang lại. Sự tác động đến
rừng và đất rừng không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nghề rừng và sự phát
triển kinh tế - xã hội tại khu vực có rừng mà còn tác động nhiều mặt đến các
khu vực phụ cận cũng như nhiều ngành sản xuất khác. Do vậy, để sử dụng tài
nguyên rừng một cách bền vững và lâu dài, việc xây dựng phương án quy
hoạch hợp lý là yêu cầu cấp thiết đối với các nhà quản lý.
Từ trước đến nay, để xây dựng phương án quy hoạch đảm bảo là cẩm
nang trong quản lý rừng, người lập quy hoạch cần điều tra đầy đủ, chính xác
về: điều kiện tự nhiên; điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình kinh doanh và các
quy luật cơ bản của tài nguyên rừng trong đối tượng quy hoạch. Tuy nhiên,
trong điều tra và nghiên cứu các điều kiện cơ bản (tự nhiên, dân sinh, kinh tế,
xã hội,...) để xây dựng phương án QHSDĐLN còn chưa chú ý tới cảnh quan
tức là chưa chú ý tới mối tương hỗ giữa các hệ sinh thái trong cảnh quan. Còn
xem xét, nghiên cứu các yếu tố cảnh quan (tự nhiên, nhân tạo) một cách riêng
rẽ, vì vậy tính khả thi của các phương án QHSDĐLN chưa cao, thường phải
điều chỉnh khi thực hiện hoặc nếu không điều chỉnh thì việc sử dụng rừng và
đất rừng chưa đúng với tiềm năng vốn có. Do đó, tính bền vững trong quản lý
2
rừng thấp, là một trong những nguyên nhân làm cho rừng suy giảm cả về diện
tích và chất lượng.
Yên Lập là huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ, diện tích rừng và đất lâm
nghiệp chiếm hơn 70% so với tổng diện tích tự nhiên. Là huyện có diện tích
đất lâm nghiệp đứng thứ ba sau huyện Tân Sơn và Thanh Sơn của tỉnh Phú
Thọ, một phần diện tích rừng của huyện thuộc vùng đầu nguồn sông Ngòi
Giành. Rừng Yên Lập có chức năng cung cấp lâm sản, phòng hộ đầu nguồn,
phòng hộ môi trường sinh thái, góp phần hạn chế thiên tai, bảo vệ sản xuất và
đời sống của cộng đồng dân cư trong vùng.
Năm 2006, thực hiện việc rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng theo Chỉ thị
38/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ, nhằm cân đối lại cơ cấu 3 loại
rừng trong đất lâm nghiệp để phát huy tối đa về hiệu quả sử dụng tài nguyên
rừng và đất lâm nghiệp. Kết quả rà soát đã làm thay đổi quy mô, vị trí, diện tích
3 loại rừng, dẫn đến việc thay đổi kế hoạch hàng năm trong công tác quản lý
Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp. Những thay đổi trên đòi hỏi phải xây
dựng quy hoạch, lập kế hoạch và triển khai phương án quy hoạch lâm nghiệp
hợp lý, có cơ sở khoa học phù hợp với thực tế, góp phần tăng thu nhập, cải
thiện đời sống của người dân trong vùng, thực hiện xoá đói giảm nghèo và đưa
kinh tế xã hội miền núi phát triển hoà nhập với tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông thôn là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, để có những cơ sở khoa học góp phần
quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện theo hướng bền vững, trên cơ sở
tiềm năng đất đai, quy hoạch phát triển lâm nghiệp phải coi trọng cả 4 khâu:
trồng, bảo vệ, làm giàu rừng và sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng. Quy
hoạch Phát triển lâm nghiệp phải đặt trong mối quan hệ tổng thể, hài hòa và
ăn khớp với quá trình chuyển đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; không gây
cản trở mà phải hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Đó là lý do tôi tiến
hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu, đề xuất nội dung cơ bản quy hoạch lâm
nghiệp huyện Yên Lập - tỉnh Phú Thọ, giai đoạn 2011 - 2020”.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Ngày nay, tài nguyên rừng của thế giới cũng như ở Việt Nam đã và
đang bị thu hẹp về diện tích, giảm sút về chất lượng, môi trường bị suy thoái,
ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng dẫn đến thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh
xảy ra ngày càng tăng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do áp lực về
dân số, kéo theo hoạt động kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đồng thời phát triển các
ngành công nghiệp, sự đô thị hoá cũng diễn ra với tốc độ nhanh. Chính vì
vậy, việc quy hoạch sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên rừng cũng như
xây dựng nền lâm nghiệp bền vững không còn là trách nhiệm riêng của một
quốc gia nào mà là công việc chung của toàn nhân loại.
1.1. Trên thế giới
Việc quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững nói
chung và tài nguyên rừng nói riêng đã và đang được các nhà khoa học trong
nước và trên thế giới quan tâm.
Tuỳ theo cách nhìn nhận về quy hoạch lâm nghiệp sao cho hợp lý đã
được nhiều tác giả đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau. Việc đưa
ra một khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực hiện, song phân tích qua
các khái niệm cho thấy có những điểm giống nhau, đó là dựa trên quan điểm
về sự phát triển bền vững thì các hoạt động có liên quan đến tài nguyên rừng
phải được xem xét một cách toàn diện và đồng thời đảm bảo sử dụng nó theo
hướng lâu dài và bền vững.
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh
tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, các đặc điểm xã hội và
nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng trên
thế giới luôn gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Quy hoạch
4
lâm nghiệp luôn phụ thuộc vào Quy hoạch vùng và Quy hoạch cảnh quan
trong quá trình xây dựng phương án quy hoạch
1.1.1. Quy hoạch vùng
Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát
triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
- Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển lực lượng sản
xuất của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân
tộc đó được phát triển đến mức độ nào”
- Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự
nhiên kinh tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố sản
xuất”. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng
sản xuất cho một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng tiềm
tàng và tương lai phát triển của vùng đó.
Dựa trên học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên
cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hóa phát triển lực lượng sản xuất trong
xã hội chủ nghĩa. Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác định theo các
nguyên tắc sau:
- Phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên toàn bộ lãnh thổ của đất
nước, tỉnh, huyện nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động
của tất cả các vùng và quá trình tái sản xuất mở rộng.
- Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của
từng tỉnh và từng huyện.
- Đưa các xí nghiệp công nghiệp đến gần nguồn nguyên liệu để hạn chế
chi phí vận chuyển.
- Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện
nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tiềm năng thiên nhiên.
5
- Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân
bố hợp lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện.
1.1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari
a. Mục đích
- Sử dụng một cách hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước.
- Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất
mở rộng.
- Xây dựng đồng bộ môi trường sống.
Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng:
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ.
+ Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác động của con người
vào đây rất ít.
+ Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, có sự
can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát.
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn
nhưng có sự tác động của con người.
+ Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và sự
can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
+ Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
b. Nội dung của quy hoạch
Quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể thiện quy hoạch chi tiết các liên
hiệp nông - công nghiệp và giải quyết các vấn đề sau:
- Cụ thể hóa, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
- Phối hợp giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp theo
ngành dọc.
- Xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ công cộng và sản xuất.
- Tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên
hợp trong phạm vi hệ thống nông thôn.
6
- Bảo vệ môi trường thiên nhiên và tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân
lao động ăn, ở, nghỉ ngơi.
1.1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp
Trong mô hình quy hoạch vùng ở Pháp, người ta đã nghiên cứu hàm
mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội vùng, có
quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là một bài
toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc như sau:
a) Các hoạt động sản xuất
- Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và
trồng trọt công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình
và cổ điển (truyền thống).
- Hoạt động khai thác rừng.
- Hoạt động đô thị: chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ
thương mại..
b) Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông nghiệp,
lâm nghiệp.
c) Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về diện
tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực ...
Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng
tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hoá trong
điều kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài.
1.1.1.3. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Thái Lan
Công tác qui hoạch phát triển vùng được chú ý từ những năm 1970. Về
hệ thống phân vị, qui hoạch tiến hành theo ba cấp: Quốc gia, vùng, á vùng
hay địa phương.
- Vùng (Region) được coi như là một á miền (Subdivision) của đất
nước đó là điều cần thiết để phân chia Quốc gia thành á miền theo các phương
diện khác nhau như: phân bố dân cư, khí hậu, địa hình,... đồng thời vì lý do
7
quản lý hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như: đơn vị hành
chính hay đơn vị bầu cử.
- Qui mô diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước và diện tích
của đất nước. Thông thường vùng nằm trên một diện tích lớn hơn đơn vị hành
chính lớn nhất. Sự phân bố các vùng theo mục đích của qui hoạch, theo đặc
điểm của lãnh thổ.
- Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo
2 cách:
Thứ nhất: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng,
những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch
vùng được giải quyết trong kế hoạch Quốc gia.
Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của
vùng, các kế hoạch đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.
Qui hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải phối hợp với Chính phủ và chính quyền địa phương.
Dự án phát triển của Hoàng gia Thái Lan đã xác định được vùng nông
nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế xã hội và chính trị ở Thái Lan
và tập trung xây dựng ở 2 vùng: Trung tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm
(1961 - 1988 và 1992 - 1996), tổng dân cư nông thôn trong các vùng nông
nghiệp từ 80% giảm xuống 66,6 %, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan
trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường [24].
1.1.2. Quy hoạch cảnh quan
Thuật ngữ “cảnh quan - Landscape” là tổng thể lãnh thổ tự nhiên của
bất kỳ một quy mô nào, có sự đồng nhất tương đối về một số hợp phần tự
nhiên nào đó, chúng mang tính chất kiểu loại và được phân loại theo các chỉ
tiêu dấu hiệu của sự đồng nhất đó. Cảnh quan được các nhà cảnh quan học
Trung Quốc lý giải theo 3 cách:
8
- Theo phương diện mỹ học, thì cảnh quan đồng nghĩa với từ “phong
cảnh”. Cảnh quan là đối tượng thẩm mỹ, mà rừng được xem là phong cảnh
(rừng phong cảnh)
- Theo phương diện địa lý thì cảnh quan là tổng hợp các thành phần
sinh vật, địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu trên bề mặt địa cầu. Khái niệm cảnh
quan này rất gần gũi với thuật ngữ hệ sinh thái hoặc quần lạc sinh địa.
- Cảnh quan sinh thái học. Cảnh quan là sự tổ hợp các hệ sinh thái khác
nhau trong một không gian. Một cảnh quan bao gồm sự tụ họp của một số hệ
sinh thái ở liền kề nhau có sự ảnh hưởng lẫn nhau, có chức năng liên quan hỗ
trợ và phát sinh đặc điểm nhất định trong một không gian.
Cảnh quan có thể thay đổi phụ thuộc vào hình dáng vật lý và vị trí như
đỉnh núi, hồ, biển hay đất liền. Cảnh quan cũng có thể chia thành cảnh quan
nông thôn hay thành thị tùy thuộc vào mức độ “nhân tạo” của cảnh quan đó.
Quy hoạch cảnh quan là một hướng nghiên cứu trong khoa học kiến
trúc cảnh quan, lý luận và thực tiễn đã có từ khá lâu, nhưng danh từ này thực
sự trở thành thuật ngữ khoa học và được nhiều người công nhận thì mới bắt
đầu những năm 70 của thế kỷ 20 (Sedon, 1986). Trong cuốn sách được công
bố “land use and landscape planning” (Dereh Loviejoy, 1973), quy hoạch
cảnh quan là sự sắp xếp mục đích sử dụng thích hợp nhất cho một nơi nào đó
có quy mô tương đối lớn.
Có nhiều cách hiểu về quy hoạch cảnh quan, nhưng có lẽ điều mà được
nhiều người thừa nhận, thì quy hoạch cảnh quan là quá trình điều tiết mối
quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên trên một phạm vi vĩ mô, dựa trên
cơ sở nhận thức về tự nhiên và quá trình nhân văn (Stiner and Osterman,
1988; Sedon, 1986; Langevelde, 1994).
Mục đích chung nhất của quy hoạch cảnh quan là thông qua quy hoạch
sử dụng đất, bảo tồn và lợi dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững.
Trên quan điểm này, thì cảnh quan chính là một hệ sinh thái, do đó cảnh quan