Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đề Xuất Một Số Nội Dung Cơ Bản Quy Hoạch Lâm Nghiệp Huyện Phù Yên Tỉnh Sơn La
PREMIUM
Số trang
107
Kích thước
901.3 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
741

Nghiên Cứu Đề Xuất Một Số Nội Dung Cơ Bản Quy Hoạch Lâm Nghiệp Huyện Phù Yên Tỉnh Sơn La

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

-------------------

NGUYỄN HUY TUẤN

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN

QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP HUYỆN PHÙ YÊN - TỈNH SƠN LA

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC

MÃ SỐ: 60 62 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ SỸ VIỆT

Hà Nội, 2010

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các

hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hóa và dịch vụ từ rừng như các hoạt

động quản lý bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm

sản và các dịch vụ môi trường rừng. Ngành Lâm nghiệp có vai trò quan trọng

trong việc cung cấp lâm sản cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội,

đồng thời góp phần bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần

xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo an ninh quốc phòng. Vì vậy cần phải tiến

hành quy hoạch lâm nghiệp nhằm bố cục hợp lý về mặt không gian tài nguyên

rừng và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh doanh theo cấp quản lý

lãnh thổ và quản lý sản xuất khác nhau, làm cơ sở cho lập kế hoạch, định

hướng cho sản xuất kinh doanh lâm nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu lâm sản

cho nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác, quy hoạch lâm nghiệp là tổ chức

kinh doanh rừng toàn diện và hợp lý nhằm khai thác tài nguyên rừng và phát

huy những tính năng có lợi khác của rừng một cách bền vững phục vụ yêu cầu

về lâm sản của nền kinh tế quốc dân, đời sống nhân dân, xuất khẩu cũng như

duy trì các tính năng và tác dụng có lợi khác của rừng như phòng hộ bảo vệ

đất, giữ nước và bảo vệ môi trường sinh thái.

Phù Yên là một huyện miền núi của tỉnh Sơn La với lợi thế về tiềm

năng đất đai, có tổng diện tích tự nhiên là 123.268 ha, trong đó diện tích đất

rừng là 53.174,9 ha. Đây là nguồn tài nguyên quý giá và phong phú nhất của

địa phương. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua do khai thác và sử dụng rừng

chưa hợp lý, hoạt động săn bắn và khai thác gỗ trái phép vẫn thường xuyên

xảy ra làm cho diện tích và chất lượng rừng của huyện ngày một suy giảm,

thiếu ổn định, hạn hán, lũ lụt xảy ra hàng năm, gây nhiều thiệt hại cho hoạt

2

động sản xuất nông lâm nghiệp, dẫn đến tình trạng kinh tế chậm phát triển,

đời sồng nhân dân nghèo nàn lạc hậu.

Những năm gần đây, cùng với tiến trình phát triển kinh tế của cả nước

và của tỉnh, kinh tế xã hội huyện Phù Yên đã đạt được những kết quả nhất

định. Mặc dù vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Phù Yên trong thời

gian qua vẫn còm chậm, chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của huyện,

đặc biệt về tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp, cho đến nay huyện Phù Yên

vẫn thuộc trong 61 huyện nghèo thuộc chương trình giảm nghèo nhanh và bền

vững của Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ. Nhằm góp phần

phát triển lâm nghiệp gắn liền với phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn miền

núi, trong những năm gần đây Nhà nước đã ban hành một số chủ trương chính

sách mới có tác động một cách sâu sắc đến công tác quy hoạch lâm nghiệp

như: Chương trình 327, chương trình dự án 661; Nghị định số 163/1999/NĐ￾CP ngày 16/11/1999; Luật bảo vệ và phát triển rừng; Nghị định số

23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006; Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày

05/2/2007; Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006; Thông tư số

05/2008/TT-BNN ngày 14/01/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về hướng

dẫn lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng...

Xuất phát từ những vấn đề trên, việc nghiên cứu đề xuất phương án quy

hoạch lâm nghiệp hợp lý, có cơ sở khoa học sẽ góp phần quản lý tài nguyên

rừng bền vững, đóng góp tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời

sống của nhân dân các dân tộc làm nghề rừng, thực hiện xoá đói, giảm nghèo

và đưa kinh tế - xã hội và đưa kinh tế xã hội miền núi phát triển hoà nhập với

tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là hết sức cần thiết. Đây cũng là

lý do chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu đề xuất một số nội dung cơ bản

quy hoạch lâm nghiệp huyện Phù Yên - tỉnh Sơn La“ trong khuôn khổ một

Luận văn tốt nghiệp cao học tại Trường Đại học Lâm nghiệp.

3

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Trên thế giới

Quy hoạch lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng

thể phát triển nông thôn và thuộc phạm trù của quy hoạch vùng. Do đó công

tác quy hoạch lâm nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch phát

triển nông thôn nhằm tránh sự trồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành và

tuân thủ theo các nguyên tắc và định hướng của quy hoạch vùng. Thực chất

của công tác quy hoạch nói chung là tổ chức không gian và thời gian phát

triển chung cho kinh tế, xã hội, môi trường hoặc một ngành hoặc một lĩnh vực

sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại, phát

triển thì nhất thiết phải tiến hành quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý, mà

trong đó công tác điều tra cơ bản phục vụ cho quy hoạch phát triển phải được

đi trước một bước.

1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ

Quy hoạch vùng lãnh thổ là thuộc loại hình quy hoạch tổng thể, đa

ngành ở tầm vĩ mô nhằm khai thác một cách toàn diện và hiệu quả các nguồn

tài nguyên sẵn có trong một vùng lãnh thổ, bao gồm tài nguyên thiên nhiên,

tài nguyên nhân văn và các công trình văn hóa, xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật

để phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Tuy nhiên,

do đặc thù và trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi vùng và mỗi quốc gia

mà nội dung đề cập trong công tác quy hoạch vùng cũng có những điểm khác

nhau.

1.1.1.1. Quy hoạch vùng ở Liên Xô

Ở Liên Xô trước đây, công tác quy hoạch vùng hay còn gọi là quy

hoạch vùng sản xuất nông nghiệp lấy việc nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc

điểm tự nhiên kinh tế xã hội của mỗi vùng làm nguyên tắc chủ đạo để phân bố

4

lực lượng sản xuất. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân

bố lực lượng sản xuất cho mỗi vùng trong quá khứ và hiện tại là tiền đề để

xác định khả năng tiềm tàng và tương lai phát triển của vùng đó. Từ đánh giá

sức lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đi tới nhận định. Phân bố lực

lượng sản xuất hợp lý là một trong các điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất

lao động tích luỹ nhiều của cải vật chất cho xã hội, không ngừng phát triển

sản xuất và văn hoá của đất nước. Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác

định theo các nguyên tắc sau:

Phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên toàn lãnh thổ của đất

nước, tỉnh, huyện, nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động

của tất các vùng trong quá trình tái sản xuất mở rộng.

Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của từng

tỉnh và từng huyện. Đưa các xí nghiệp công nghiệp đến gần nguồn nguyên

liệu để hạn chế chi phí vận chuyển.

Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện

nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tiềm năng thiên nhiên.

Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân bổ hợp

lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện [17].

1.1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây

Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ nhằm mục đích sử dụng một cách

hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước và bố trí hợp lý các hoạt động của con

người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng, xây dựng đồng bộ môi trường

sống. Theo đó lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng sau:

- Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ.

- Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác động của con người

vào đây rất ít.

5

- Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới giao thông nông

thôn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát.

- Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn

nhưng có sự tác động đặc biệt của con người.

- Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới giao thông và có sự

can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

- Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con

người.

Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước, tiến hành quy hoạch lãnh

thổ cho các địa phương. Đồ án quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể hiện quy

hoạch chi tiết các liên hiệp trong công nghiệp và liên hiệp công nông nghiệp

và giải quyết các vấn đề sau:

- Cụ thể hoá, chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp.

- Phối hợp giữa sản xuất công nghiệp nông nghiệp và công nghiệp với

mục đích liên kết theo ngành dọc.

- Xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ lợi ích công cộng và sản

xuất.

- Tổ chức hợp lý mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp

trong phạm vi hệ thống nông thôn.

- Bảo vệ môi trường thiên nhiên và tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân

lao động ăn, ở, nghỉ ngơi.

1.1.1.3. Quy hoạch vùng ở Pháp

Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp được thực hiện theo quan

điểm hệ thống các mô hình quy hoạch vùng lãnh thổ của M.Thénevin

(M.Pierre Thénevin). Trong mô hình quy hoạch vùng này, người ta đã nghiên

cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội

6

bộ vùng, có quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình

là một bài toán quy hoạch tuyến tính với các thành phần chính sau:

Các hoạt động sản xuất:

- Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và

trồng trọt công nghiệp với các mức độ thâm canh cao độ, thâm canh trung

bình và cổ điển (truyền thống).

- Hoạt động khai thác rừng gồm khai thác chế biến gỗ, bột giấy, vận

chuyển, dịch vụ thương mại.

- Nhân lực phân theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông

nghiệp, lâm nghiệp.

- Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về diện

tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực...

Quy hoạch vùng đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng thêm

giá trị sản phẩm của xã hội theo phương thức mô hình hoá trong điều kiện

thực tiễn của vùng so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài.

1.1.1.4. Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan

Ở Thái lan, công tác quy hoạch phát triển vùng được chú ý từ những

năm 1970 của thế kỷ trước. Hệ thống phạm vi quy hoạch được tiến hành theo

3 cấp: Quốc gia, vùng, địa phương.

Vùng được coi như là một phần lãnh thổ của đất nước có nhũng nét đặc

trưng phân bố dân cư, khí hậu, địa hình,... khác biệt với các vùng khác.

Quy mô diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của

đất nước.

Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,

phải phối hợp với chính quyền, địa phương nhằm giải quyết 2 vấn đề sau:

7

- Thứ nhất: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng,

những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch

vùng được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.

- Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của

vùng, các kế hoạch vùng được đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc

gia.

Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý nhà nước,

phải phối hợp với Chính phủ và chính quyền địa phương.

1.1.2. Quy hoạch sản xuất lâm nghiệp

Sự phát sinh của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh

tế tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển nên khối

lượng gỗ yêu cầu ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa

phương phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa.

Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn

thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu

hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý

luận quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng đã được hình thành trong hoàn

cảnh như vậy.

Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc

"Khoanh khu chặt luân chuyển", có nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài

nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh

khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ

cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.

Sau cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ 19 phương thức kinh doanh

rừng chồi được thay bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai

thác dài. Và phương thức "Khoanh khu chặt luân chuyển" nhường chỗ cho

phương thức "Chia đều" của Hartig. Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành

8

nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến

năm 1816 xuất hiện phương pháp phân kỳ lợi dụng của H.Cotta. Cotta chia

chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng

chặt hàng năm.

Sau đó phương pháp "Bình quân thu hoạch" ra đời. Quan điểm phương

pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời

vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ 19

xuất hiện phương pháp "Lâm phần kinh tế" của Judeich, phương pháp này

khác với phương pháp "Bình quân thu hoạch" về căn bản, Judeich cho rằng

những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào

diện khai thác. Hai phương pháp "bình quân thu hoạch" và "lâm phần kinh tế"

chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác

nhau.

Phương pháp "Bình quân thu hoạch" và sau này là phương pháp "Cấp

tuổi" chịu ảnh hưởng của "Lý luận rừng tiêu chuẩn", có nghĩa là yêu cầu rừng

phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích và trữ lượng, vị trí và

đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay phương pháp kinh

doanh rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phòng

phú. Còn phương pháp "Lâm phần kinh tế" và hiện nay là phương pháp "Lâm

phần" không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm

phần tiến hành phân tích xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh, phương

thức điều chế rừng. Cũng từ phương pháp này còn phát triển thành "Phương

pháp kinh doanh lô" và "phương pháp kiểm tra" [18].

Tại Châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai

trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm

1929 bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai trong đó có quy định

nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng đất

9

đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xác định các diện

tích cho sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí [43].

Năm 1946, Jack G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại

đất đai với tên “phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây cũng là tài

liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất.

Tại vùng Rhodesia trước đây nay là Cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã

xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch

cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Tạp chí

“East African Journal for Agriculture Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về

quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam Châu phi. Năm 1966, Hội Đất học của Mỹ và

Hội nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá

khả năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch sử dụng đất.

Năm 1967 Hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với FAO tổ

chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và quy hoạch sử dụng đất. Các

hội nghị này khẳng định rằng quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch

cho các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi… cũng như

quy hoạch cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch

đất đai.

Năm 1976 tác giả Haber (Đức) đã cho xuất bản tài liệu “khái niệm về

sử dụng đất khác nhau” đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử

dụng đất quan trọng trong nông lâm nghiệp dựa trên quan điểm về mối quan

hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như tính ổn định của chúng

với năng suất và khả năng điều chỉnh.

Vấn đề lập kế hoạch sử dụng và quản lý tài nguyên đất cũng được các

nhà khoa học ở các quốc gia đặc biệt quan tâm. Khởi đầu, công tác lập kế

hoạch được xây dựng bằng cách tiếp cận một chiều từ trên xuống dưới. Tuy

nhiên, phương pháp này sớm bộc lộ những nhược điểm của nó, thiếu vắng sự

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!