Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đề Xuất Một Số Giải Pháp Quản Lý Bảo Vệ Rừng Trên Cơ Sở Cộng Đồng Ở Huyện Phù Yên Tỉnh Sơn La
PREMIUM
Số trang
106
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1999

Nghiên Cứu Đề Xuất Một Số Giải Pháp Quản Lý Bảo Vệ Rừng Trên Cơ Sở Cộng Đồng Ở Huyện Phù Yên Tỉnh Sơn La

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngành Lâm nghiệp nƣớc ta đang trong quá trình chuyển mạnh từ lâm

nghiệp Nhà nƣớc sang lâm nghiệp xã hội. Trong quá trình chuyển đổi này đã

và đang xuất hiện những nhân tố mới trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng,

trong đó cộng đồng dân cƣ thôn, bản, những ngƣời hiện đang sinh sống ở

vùng rừng và gần rừng, đời sống kinh tế, xã hội của họ có quan hệ trực tiếp và

gắn chặt với rừng, đây là một nhân tố tích cực và ngày càng có vị trí quan

trọng trong hệ thống quản lý rừng cộng đồng. Vì vậy, phát huy vai trò tham

gia của các cộng đồng dân cƣ thôn, bản để quản lý rừng là vấn đề vừa mang ý

nghĩa phát huy truyền thống dân tộc, vừa tạo ra một cách quản lý rừng có hiệu

quả hơn, bền vững hơn, phù hợp với những xu thế phát triển nghề rừng trên

thế giới, đặc biệt là các nƣớc đang phát triển [2], [21].

Huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La là một huyện miền núi với lợi thế về tiềm

năng đất đai, có tổng diện tích tự nhiên là: 123655ha, trong đó diện tích đất

rừng là: 54538,17ha, chủ yếu là rừng tự nhiên. Đây là nguồn tài nguyên quí

gía và phong phú nhất của địa phƣơng. Phù Yên còn đƣợc biết đến với cánh

đồng “Mường Tấc”, cánh đồng rộng thứ ba của vùng Tây Bắc: “Nhất Thanh

- Nhì Lò - Tam Tấc - Tứ Than”. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua do khai thác

và sử dụng rừng chƣa hợp lý, hoạt động săn bắn và khai thác gỗ trái phép vẫn

thƣờng xuyên xảy ra làm cho diện tích và chất lƣợng rừng tự nhiên của huyện

ngày một suy giảm, thiếu ổn định, hạn hán, lũ lụt xảy ra hàng năm, gây nhiều

thiệt hại cho hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, diện tích đất ruộng cũng

dần bị thu hẹp do thiếu nƣớc sản xuất,...dẫn đến tình trạng kinh tế chậm phát

triển, đời sồng nhân dân nghèo nàn lạc hậu.

Từ thực tế đã cho thấy, một trong những nguyên nhân chủ yếu gây mất

rừng là thiếu sự tham gia tích cực của ngƣời cộng đồng dân cƣ địa phƣơng.

Không ít ngƣời thờ ơ với hoạt động xâm hại rừng, thậm trí còn trực tiếp tham

gia vào hoạt động khai thác gỗ và động vật rừng. Công tác quản lý rừng

không thể hiệu quả nếu chỉ đơn thuần dựa vào Nhà nƣớc, mà phải khuyến

khích tham gia của cộng đồng.

2

Vấn đề là làm thế nào để phát huy đƣợc vai trò của cộng đồng tham gia

vào quản lý bảo vệ rừng, cần có những giải pháp gì về kinh tế, xã hội, về khoa

học công nghệ để xã hội hoá công tác này. Đây là vấn đề băn khoăn trăn trở

không chỉ của những ngƣời trực tiếp làm công tác quản lý bảo vệ rừng mà của

các cấp chính quyền địa phƣơng.

Nhằm góp phần bảo vệ tốt diện tích rừng hiện còn và nâng cao chất

lƣợng cuộc sống cho ngƣời dân trên địa bàn huyện Phù Yên, trong khuôn khổ

xây dựng luận văn Cao học, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đề xuất

một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở huyện Phù

Yên, tỉnh Sơn La”.

3

Chƣơng 1

TỔNG QUAN

1.1. Nhận thức về quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng

Cộng đồng là một tập hợp những ngƣời sống gắn bó với nhau thành một

xã hội nhỏ có những điểm tƣơng đồng về mặt văn hoá, kinh tế, xã hội truyền

thống, phong tục tập quán, có các quan hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó

với nhau và thƣờng có ranh giới không gian trong một thôn, bản. Theo quan

niệm này, “cộng đồng” chính là “cộng đồng dân cƣ thôn bản”. Tuy nhiên,

trong phạm vi hẹp hơn còn bao gồm cả cộng đồng sắc tộc, cộng đồng các

dòng họ, cộng đồng tôn giáo hoặc các nhóm hộ trong thôn bản.

Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng, nhƣng phần lớn

các ý kiến đều cho rằng “cộng đồng” đƣợc dùng trong quản lý rừng chính là

nói đến cộng đồng dân cƣ thôn, bản. Tại Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển

rừng năm 2004 đã định nghĩa “cộng đồng dân cƣ thôn là toàn bộ các hộ gia

đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc

đơn vị tƣơng đƣơng” [12].

Trong nghiên cứu của đề tài này, cộng đồng đƣợc hiểu theo nghĩa là

cộng đồng thôn, bản (kể cả các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng).

1.1.1. Khái niệm về cộng đồng tham gia quản lý rừng

Cộng đồng tham gia quản lý rừng cũng có thể thay thế bằng một từ

chung nhất là lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ).

Theo FAO, LNCĐ là thuật ngữ bao trùm diễn tả hàng loạt các hoạt động

gắn ngƣời dân với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích

các sản phẩm này.

Hiện nay, ở Việt Nam có những quan điểm khác nhau về LNCĐ và chƣa

có một định nghĩa chính thức nào đƣợc công nhận. Tuy nhiên, qua các cuộc

hội thảo dƣờng nhƣ mọi ngƣời đều thống nhất ở Việt Nam, có hai hình thức

quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO nhƣ sau:

- Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ)

4

Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và

ăn chia sản phẩm hoặc hƣởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử

dụng, sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng.

Rừng của cộng đồng là rừng của làng bản đã đƣợc quản lý theo truyền

thống lâu đời (rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nƣớc…quản lý theo các luật tục

truyền thống với tinh thần tự nguyện cao); rừng trồng của các hợp tác xã,

rừng tự nhiên đuợc giao cho các hợp tác xã trƣớc đây, nay hợp tác xã giao lại

cho các xã, hoặc các thôn quản lý; rừng đƣợc chính quyền địa phƣơng giao

cho cộng đồng với tính chất thí điểm trong thời gian gần đây.

- Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng

Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc

quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử

dụng sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhƣng có quan hệ trực tiếp đến

đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của

cộng đồng (thuỷ lợi nhỏ, nước sinh hoạt…). Hình thức này bao gồm hai đối

tƣợng:

+ Rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng

đồng tham gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia xẻ lợi ích

cùng nhau trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để bảo vệ rừng, hỗ trợ

hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt động lâm nghiệp…).

+ Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nƣớc

(các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm

nghiệp nhà nước, các trạm trại…) và các tổ chức tƣ nhân khác. Cộng đồng

tham gia các hoạt động lâm nghiệp nhƣ bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh,

phục hồi rừng, trồng rừng với tƣ cách là ngƣời làm thuê thông qua các hợp

đồng khoán và hƣởng lợi theo các cam kết trong hợp đồng.

Từ sự phân tích trên đây cho thấy, LNCĐ, QLRCĐ là những khái niệm

khác nhau. Thuật ngữ QLRCĐ đƣợc sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn để chỉ CĐ

quản lý những khu rừng của một cộng đồng dân cƣ, còn nói đến LNCĐ hay

5

cộng đồng tham gia quản lý rừng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn

ngƣời dân trong cộng đồng dân cƣ thôn bản với rừng, cây, các sản phẩm của

rừng và việc phân chia lợi ích từ rừng. Hay nói cách khác, LNCĐ là một hình

thức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng do cộng đồng dân cƣ thôn

bản thực hiện bao gồm cả rừng của cộng đồng và rừng của các thành phần

kinh tế khác.

Với cách hiểu nhƣ vậy, nên chấp nhận LNCĐ bao gồm cả quản lý rừng

cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của cộng đồng) và quản lý rừng dựa vào

cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của các chủ rừng khác). Khái niệm này

vừa phù hợp với định nghĩa của FAO vừa phát huy đƣợc nhiều hơn sự đóng

góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng [21],

[37], [38].

BVR trên cơ sở cộng đồng là BVR mà phát huy đƣợc những nội lực của

cộng đồng cho các hoạt động chống lại sự xâm hại đến rừng nhƣ: chống chặt,

phá, lấn chiếm rừng, đất rừng, khai thác lâm sản, săn, bẫy, bắt động vật rừng

trái phép, phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR), phòng trừ sinh vật gây hại

rừng, bảo vệ hệ sinh thái rừng và đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật

về quản lý lâm sản. Những giải pháp BVR trên cơ sở cộng đồng luôn chứa

đựng những sắc thái của luật tục, phong tục, tập quán, ý thức dân tộc, nhận

thức, kiến thức của ngƣời dân, đặc điểm quan hệ gia đình, họ hàng, các tổ

chức đoàn thể, làng bản phù họp với chính sách pháp luật của Nhà nƣớc.

1.1.2. Vai trò của chính sách Nhà nước đối với BVR trên cơ sở cộng

đồng

BVR trên cơ sở cộng đồng đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở phong tục, tập

quán, kiến thức và thể chế bản địa của ngƣời dân địa phƣơng. Tuy nhiên, có

những phong tục tập quán phù hợp với yêu cầu quản lý bền vững tài nguyên

rừng, nhƣng cũng có những phong tục tập quán ngƣợc lại với yêu cầu quản lý

bền vững tài nguyên rừng. Do đó, quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng phải

hƣớng và phát huy đƣợc những phong tục tập quán có lợi và giảm dần những

phong tục tập quán cản trở đến quản lý bền vững tài nguyên rừng [24].

6

BVR trên cơ sở cộng đồng sẽ không thể thực hiện đƣợc nếu thiếu sự hậu

thuẫn của các chính sách và thể chế Nhà nƣớc. Các tổ chức cộng đồng không

phải là cơ quan quyền lực, không có công cụ chuyên chính riêng. Trong nhiều

trƣờng hợp, tổ chức cộng đồng không giải quyết đƣợc một cách triệt để những

vấn đề phức tạp của quản lý BVR. Khi đó các tổ chức cộng đồng phải hợp tác

với các cơ quan chính quyền để giải quyết những vấn đề vƣợt khỏi quyền hạn

của mình. Vì vậy, các qui định của cộng đồng phải đƣợc xây dựng trên cơ sở

tính đến sự hỗ trợ của các chính sách và thể chế hiện thời của Nhà nƣớc,

không trái với các qui định của Nhà nƣớc.

1.1.3. Chiến lược và chính sách BVR trên cơ sở cộng đồng

Chiến lƣợc và chính sách quản lý, bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng của

các nƣớc trong khu vực đều đƣợc tiến hành theo những hƣớng sau:

- Những giải pháp chủ yếu để tăng cƣờng quyền quản lý, BVR trên cơ sở

cộng đồng: Phát huy những luật tục, phong tục tập quán và trách nhiệm của

toàn cộng đồng đối với công tác QLBV&PTR, xây dựng qui ƣớc, hƣơng ƣớc

BVR của thôn, bản, qui định rõ quyền lợi và trách nhiệm của mọi ngƣời dân

trong cộng đồng.

- Kết hợp những giải pháp về chính sách hỗ trợ về kinh tế - xã hội để

khuyến khích ngƣời dân tham gia, trong đó chú trọng phát triển đồng bộ cả

giải pháp về đào tạo, tập huấn trong việc BVR trên cơ sở cộng đồng.

- Các hình thức BVR: Tuần tra BVR, PCCCR trên địa bàn phải đƣợc

thực hiện theo phƣơng pháp cùng tham gia ở tất cả các giai đoạn tuần tra bảo

vệ, xây dựng lực lƣợng, kế hoạch bảo vệ. Đây đƣợc xem là phƣơng pháp cho

phép phát huy đầy đủ nhất những nội lực của cộng đối với công tác BVR.

1.1.4. Quan điểm về BVR trên cơ sở cộng đồng

Bảo vệ có hiệu quả tài nguyên rừng chính là để nâng cao chất lƣợng cuộc

sống cho các cộng đồng dân cƣ thôn, bản. Công tác BVR phải đƣợc tiến hành

đồng thời với sự phát triển kinh tế - xã hội và góp phần nâng cao thu nhập cho

cộng đồng dân cƣ thôn, bản trên địa bàn. Mấu chốt của vấn đề BVR trên cơ

sở cộng đồng vừa là bảo vệ đƣợc tài nguyên rừng vừa giải quyết tốt vấn đề

nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho cộng đồng.

7

Bảo vệ tài nguyên rừng nếu không có sự tham gia của cộng đồng dân cƣ

thôn, bản thì sẽ không thành công. Vì vậy, đề xuất các giải pháp để nâng cao

trách nhiệm và quyền hƣởng lợi của cộng đồng dân cƣ thôn, bản trong BVR

là rất cần thiết. Để công tác BVR đạt hiệu quả cao thì phải có chính sách

khuyến khích, thu hút sự tham gia tích cực của cộng dồng dân cƣ thôn, bản

[10], [21].

1.2. Tình hình nghiên cứu và thực hiện trên thế giới

Trong giai đoạn hiện nay BVR trên cơ sở cộng đồng đang đƣợc xem nhƣ

là một giải pháp hữu hiệu để bảo vệ hiệu quả vốn rừng hiện còn, góp phần

giải quyết tình trạng diện tích, chất lƣợng rừng ngày một giảm. Đã có không ít

những mô hình quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng thành công ở Thái Lan,

Malaysia, Trung Quốc.... Đây sẽ là những bài học quý báu cho quá trình xây

dựng những giải pháp quản lý bền vững tài nguyên rừng trên cơ sở cộng đồng

ở Việt Nam.

BVR trên cơ sở cộng đồng ở một số nƣớc:

* Ở Thái Lan:

Thái Lan là một nƣớc đƣợc các nƣớc trong khu vực và trên thế giới đánh

giá cao về những thành tựu trong công tác xây dựng các chƣơng trình BVR

trên cơ sở cộng đồng.

Ở đây, sử dụng đất đai đƣợc thông qua chƣơng trình làng rừng, hộ nông

dân đƣợc giao đất nông nghiệp, đất thổ cƣ, đất để trồng rừng. Ngƣời nông dân

đƣợc Chính phủ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có trách nhiệm

quản lý đất, không đƣợc chặt hoặc sử dụng cây rừng. Việc cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đã làm gia tăng mức độ an toàn cho ngƣời

đƣợc nhận đất. Do vậy đã ảnh hƣởng tích cực đến việc khuyến khích đầu tƣ

và tăng sức sản xuất của đất [33].

* Ở NePal:

Năm 1957, Nhà nƣớc thực hiện quốc hữu hoá rừng, Nhà nƣớc tập trung

quản lý, BVR và đất rừng, ngƣời dân ít quan tâm đến BVR của Nhà nƣớc, kết

quả là trong vòng 20 năm hàng triệu ha rừng bị tàn phá.

8

Từ năm 1978, Chính phủ đã giao quyền quản lý và BVR cho ngƣời dân

địa phƣơng để thực hiện chính sách phát triển lâm nghiệp cộng đồng. Tuy

nhiên, sau một thời gian ngƣời ta nhận thấy các đơn vị hành chính này không

phù hợp với việc quản lý và BVR do các khu rừng nằm phân tán, không theo

đơn vị hành chính và ngƣời dân có nhu cầu, sở thích sử dụng sản phẩm rừng

khác nhau.

Năm 1989, Nhà nƣớc thực hiện chính sách lâm nghiệp mới đó là chia

rừng và đất rừng làm hai loại: rừng tƣ nhân và rừng Nhà nƣớc cùng với hai

loại sở hữu rừng tƣơng ứng là sở hữu tƣ nhân và sở hữu rừng Nhà nƣớc.

Trong quyền sở hữu của Nhà nƣớc lại đƣợc chia theo các quyền sử dụng khác

nhau nhƣ: rừng cộng đồng theo nhóm ngƣời sử dụng, rừng hợp đồng với các

tổ chức, rừng tín ngƣỡng, rừng phòng hộ. Nhà nƣớc công nhận quyền pháp

nhân và quyền sử dụng cho các nhóm sử dụng.

Năm 1993, Nêpal phát triển chính sách lâm nghiệp mới, nhấn mạnh đến

các nhóm sử dụng rừng, cho phép gia tăng quyền hạn và hỗ trợ cho các nhóm

sử dụng rừng thay chức năng của các phòng lâm nghiệp huyện từ chức năng

cảnh sát và chỉ đạo sang chức năng hỗ trợ và thúc đẩy cho các cộng đồng, từ

đó rừng đƣợc quản lý và bảo vệ có hiệu quả hơn.

Năm 2000 QLBVR trên cơ sở cộng đồng đƣợc thực hiện tại các vùng đồi

có diện tích trên 500 nghìn ha rừng suy thoái đƣợc giao cho các nhóm sử

dụng rừng. Hoạt động này đã thu hút sự tham gia của khoảng 800.000 hộ (4

triệu ngƣời). Trọng tâm của chính sách lâm nghiệp cộng đồng tại Nepal là bảo

vệ rừng cộng đồng và cho phép ngƣời dân tiếp cận tài nguyên rừng phục vụ

nhu cầu sinh hoạt cơ bản. Lâm nghiệp cộng đồng tại Nepal dựa vào các nhóm

sử dụng rừng, trong đó mỗi nhóm đƣợc giao quản lý một diện tích rừng nhất

định. Nhà nƣớc đƣợc lợi từ hoạt động này là diện tích rừng suy thoái đƣợc

phủ xanh trong khi đó các nhóm sử dụng rừng có cơ hội tiếp cận lâm sản [11],

[34], [36].

*Ở Indonêsia:

Năm 1991, chƣơng trình phát triển lâm nghiệp đƣợc hình thành, năm

1995 đổi tên thành chƣơng trình phát triển cộng đồng làng lâm nghiệp do Bộ

9

lâm nghiệp quản lý. Chƣơng trình này yêu cầu các công ty khai thác gỗ phải

góp phần phát triển nông thôn và BVR với 3 mục tiêu:

- Cải thiện điều kiện sống cho ngƣời dân sống ở trong và ngoài khu vực

đang khai thác gỗ.

- Nâng cao chất lƣợng và năng suất của rừng.

- BVR và môi trƣờng.

Năm 1996, Bộ lâm nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ và các trƣờng Đại

học đã xây dựng một chƣơng trình dự án điểm lôi kéo ngƣời dân vào bảo vệ

và phát triển rừng. Dự án này cho phép ngƣời dân quản lý 10.000ha rừng có

khả năng khai thác gỗ [35].

*Ở Ấn Độ:

Đặc điểm nổi bật trong chính sách quản lý rừng của Ấn Độ là sự duy trì

mối quan hệ giữa rừng với ngƣời dân các bộ tộc và những ngƣời nghèo sống

ở trong rừng và gần rừng, bảo vệ quyền lợi nhận rừng và hƣởng lợi từ rừng

lâu đời của họ. Ấn Độ đã coi cộng đồng nhƣ một đối tác quản lý những vùng

đất rừng của Chính phủ. Chính phủ cho phép các cộng đồng đƣợc sử dụng tất

cả các sản phẩm không phải là gỗ, còn việc phân chia quyền lợi cây gỗ lại có

sự thay đổi nhiều giữa các Bang. Tại Ấn Độ, ngƣời ta nghiên cứu một số giải

pháp nhằm tạo ra hoặc tăng thêm các tổ chức địa phƣơng có hiệu lực lâu dài

cho quản lý rừng cộng đồng [31], [32].

*Ở Philippine:

Từ những năm 1970, Chính phủ Philippine đã quan tâm đến phát triển

lâm nghiệp xã hội. Nhà nƣớc xây dựng các dự án Lâm nghiệp xã hội tổng hợp

do Bộ tài nguyên thiên nhiên chủ trì và phối hợp với các bộ có liên quan, phân

chia thành từng vùng phát triển; Lâm nghiệp xã hội do Giám đốc vùng phụ

trách, xây dựng mạng lƣới đến cấp huyện. Philippine chú trọng chuyển giao

kỹ thuật nông lâm kết hợp và kỹ thuật canh tác đất dốc đến ngƣời nông dân để

phát triển lâm nghiệp. Năm 1982, Chính phủ xây dựng dự án phát triển lâm

nghiệp xã hội quốc gia công nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho cộng đồng.

Từ kết quả thực tế của các nƣớc đã thu đƣợc trong công tác BVR trên cơ

sở cộng đồng, một vấn đề cực kỳ quan trọng là phải giải thích cho cộng đồng

10

rõ những lợi ích do rừng mang lại cho cộng đồng và những chính sách về kinh

tế để hỗ trợ cộng đồng trong công tác và để bảo rừng có hiệu quả phải tuân

thủ nguyên tắc gắn công tác BVR với cộng đồng thôn, bản [29], [30].

1.3. BVR trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam

1.3.1.Các tổ chức cộng đồng ở Việt Nam

- Cộng đồng dân tộc: Hiện nƣớc ta có 54 dân tộc, với mỗi cộng đồng dân

tộc đều có những đặc điểm riêng về văn hoá, tổ chức xã hội, tiếng nói, phong

tục tập quán...

- Cộng đồng làng, bản:

+ Làng, xóm ở miền xuôi là hình thức cộng đồng đƣợc hình thành trên cơ

sở của phƣơng thức canh tác lúa nƣớc, đã có nhiều thể chế tồn tại lâu đời

trong xã hội nông thôn Việt Nam.

+ Thôn, bản ở miền núi là hình thức cộng đồng đƣợc hình thành trên cơ

sở sắc tộc và kinh tế tự nhiên tự túc, tự cấp, có ảnh hƣởng sâu sắc đến việc

quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng [2].

Ngoài hai hình thức chủ yếu trên còn có các loại hình cộng đồng khác

nhƣ: cộng đồng tôn giáo, cộng đồng họ tộc, cộng đồng giới tính... Một số loại

hình cộng đồng đã đƣợc phát triển thành các tổ chức đoàn thể có mục tiêu,

điều lệ rõ ràng, hoạt động theo quy chế tổ chức chính trị xã hội hay các tổ

chức kinh tế. Một số đoàn thể đã tham gia và có nhiều đóng góp cho việc phát

triển lâm nghiệp tại các địa phƣơng nhƣ: Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu

chiến binh, Đoàn thanh niên...

1.3.2. Hình thức BVR trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam

Tính cộng đồng của các dân tộc Việt Nam đã là yếu tố quan trọng tạo

nên cơ sở cho những thành quả đã đạt đƣợc trong công cuộc bảo vệ và phát

triển tài nguyên rừng. Vì vậy, vấn đề phát huy vai trò của các cộng đồng để

quản lý nguồn tài nguyên rừng là vấn đề vừa mang ý nghĩa phát huy truyền

thống, vừa có thể tạo ra một cách quản lý tài nguyên có hiệu quả hơn, bền

vững hơn, phù hợp với những xu hƣớng phát triển của thế giới[21].

Ở Việt Nam, hình thức quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng mới đƣợc coi

là một hình thức tồn tại song song với các hình thức khác nhƣ: quản lý BVR

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!