Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại  Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên
PREMIUM
Số trang
87
Kích thước
764.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1685

Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng thuộc điạ bàn hành chính

huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 40 km về hướng Bắc.

Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng nằm trên địa bàn các

xã Thần Sa, Phú Thượng và thị trấn Đình Cả thuộc huyện Võ Nhai, tỉnh Thái

Nguyên, được thành lập ngày 01 tháng 12 năm 1999 với diện tích là 11.280 ha

theo Quyết định số 3841/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Khu

vực này có hệ sinh thái rừng núi đá độc đáo, có tính đa dạng sinh học phong

phú với nhiều nguồn gen động thực vật quý hiếm và nhiều hệ sinh thái chuẩn

của vùng núi đá. Nơi đây còn lưu giữ các di chỉ khảo cổ học cũng như các di

tích lịch sử, danh lam có giá trị.

Năm 2006, thực hiện Chỉ thị số 38/2005/CT-TTg ngày 5 tháng 12 năm

2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc rà soát 3 loại rừng, Khu bảo tồn thiên

nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng được quy hoạch theo ranh giới mới trên địa

bàn 6 xã và 1 thị trấn gồm: Thần Sa, Sảng Mộc, Thượng Nung, Nghinh Tường,

Vũ Chấn, Phú Thượng, Đình Cả, với tổng diện tích là 17.639,0 ha và đã được

Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên phê duyệt tại Quyết định số 1563/QĐ-UB

ngày 08 tháng 8 năm 2007.

Theo kết quả điều tra tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng

Hoàng thành phần thực vật ở khu bảo tồn có 1.096 loài, 645 chi, 160 họ ở 5

ngành thực vật khác nhau; 56 loài thú 25 họ và 8 bộ; 117 loài Chim; 11 loài

lưỡng cư; 28 loài bò sát; 77 loài cá thuộc 13 họ và 4 bộ;... trong đó có nhiều

loài có tên trong sách đỏ Việt Nam như: Lan hài Việt Nam, Re hương, Đảng

sâm, Trò xanh, Nghiến gân ba, Hoàng đằng, Trai lý, Đinh mật, Hổ mang chúa,

Tê tê, Voọc mũi hếch, Voọc bạc má, Hươu xạ,...

Đây là hệ thống rừng núi đá tập trung ở các xã phía Bắc huyện Võ Nhai,

là một trong ít khu vực còn lại diện tích và trữ lượng rừng tự nhiên đáng kể trong

tỉnh Thái Nguyên. Nó nằm trong vùng núi đá miền Bắc Việt Nam và có tính đa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

dạng sinh học như khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ (Bắc Kạn), khu bảo tồn thiên

nhiên Hữu Liên (Lạng Sơn),... Với tính đa dạng sinh học cao có thể khẳng định

đây là một mẫu rừng đặc trưng cho hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi tỉnh Thái

Nguyên. Hiện tại, những tác động tiêu cực của một số người dân địa phương và

các vùng lân cận đã và đang tàn phá khu rừng , những mối đe dọa không ngừng

gia tăng làm cho nguy cơ mất đi một trong những hệ sinh thái rừng đặc thù và

còn tính chất đa dạng sinh học cao là một thực tế khó tránh khỏi. Trong khi đó,

khả năng phục hồi rừng trên núi đá là rất khó khăn, nếu để mất rừng núi đá sẽ

làm mất đi nguồn tài nguyên khó khôi phục và sẽ gây nên những hậu quả khó

lường. Trong những năm gần đây, công tác quản lý bảo vệ rừng đã được quan

tâm và thực hiện một cách tốt hơn. Tuy nhiên, do địa hình núi đá hiểm trở, phức

tạp trong khi lực lượng kiểm lâm mỏng, địa bàn quản lý rộng nên công tác bảo

vệ rừng thường xuyên gặp khó khăn, rừng trong khu vực vẫn tiếp tục bị đe doạ.

Mức độ đe dọa đối với hệ sinh thái rừng và các loài động thực vật quý hiếm vẫn

đang ở mức cao, nếu không có sự quản lý bảo vệ theo quy chế của một khu bảo

tồn thì hệ sinh thái rừng nơi đây sẽ tiếp tục bị tàn phá và trong những năm tới sẽ

không còn giá trị bảo tồn. Để góp phần giải quyết những vấn đề nêu trên, trong

phạm vi luận văn, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu đề xuất một số giải

pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên

Thần Sa - Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên”.

Nguyễn Xuân Tùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

Chƣơng I

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái niệm về quản lý rừng bền vững

Từ lâu việc quản lý rừng bền vững đã được các nhà lâm học xem là vấn

đề cơ bản của kinh doanh rừng. Phần lớn các học thuyết về rừng đều hướng

vào phân tích những quy luật sinh trưởng, phát triển của cá thể và quần thể

rừng trong mối quan hệ với các điều kiện tự nhiên và những tác động kỹ thuật

của con người làm cơ sở để xây dựng những biện pháp quản lý thích hợp nhằm

nâng cao năng suất và tính ổn định của hệ sinh thái rừng. Những kiến thức liên

quan đến quản lý rừng bền vững được trình bày trong nhiều môn học khác

nhau như Lâm học, trồng rừng, quy hoạch rừng, điều chế rừng,... Tuy nhiên,

trong những năm gần đây, do nhận thức được vai trò quan trọng của rừng với

môi trường và sự phát triển bền vững nói chung, vấn đề quản lý rừng bền vững

nói riêng được mọ i người quan tâm nhiều hơn trong đó có cả những chuyên gia

lâm nghiệp, chủ rừng, chính quyền và nhiều tổ chức kinh tế - xã hội khác.

Theo Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) thì “QLRBV là quá trình quản lý

những diện tích rừng cố định, nhằm đạt được những mục tiêu là đảm bảo sản

xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ của rừng như mong muốn mà không làm

giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng, không gây

ra những tác động tiêu cực của những môi trường vật lý và xã hội” [26].

Theo Tiến trình Helsinki thì QLRBV quản lý rừng và đất rừng một cách

hợp lý để duy trì tính đa dạ ng sinh họ c, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống

của rừng, đồng thời duy trì tiềm năng thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội

và sinh thái của chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai, ở cấp địa

phương, cấp quốc gia và toàn cầu, không gây ra những tác hại đối với các hệ

sinh thái khác [26].

Hai khái niệm này đã nêu lên được mục tiêu chung của QLRBV là đạt

được sự ổn định về diện tích , bền vững về tính đa dạng sinh họ c , về năng suất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

kinh tế và đảm bảo hiệu quả về môi trường sinh thái của rừng. Tuy nhiên, vấn

đề QLRBV cũng phải đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng các biện pháp quản

lý rừng cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương được quốc gia

và quốc tế chấp nhận.

Như vậy, QLRBV được hiểu là hoạt động nhằm ngăn chặn được tình

trạng mất rừng, mà trong đó việc khai thác lợi dụng rừng không mâu thuẫn với

việc duy trì diện tích và chất lượng của rừng, đồng thời duy trì và phát huy

được chức năng bảo vệ môi trường sinh thái lâu bền đối với con người và thiên

nhiên. Quản lý rừng bền vững nhằm phát huy đồng thời những giá trị về các

mặt kinh tế, xã hội và môi trường của rừng. Hệ thống những biện pháp kinh tế,

xã hội và khoa học công nghệ phục vụ quản lý rừng bền vững thường được xây

dựng trên cơ sở những kết quả nghiên cứu cụ thể về điều kiện tự nhiên, kinh tế

và xã hội của mỗi địa phương.

Mục tiêu cơ bản của QLRBV là đồng thời đạt được bền vững về kinh tế,

bền vững về xã hội và bền vững về môi trường [26]. Nội dung cơ bản của

những thuật ngữ này như sau:

- Bền vững về kinh tế: Lợi ích mang lại lớn hơn chi phí đầu tư và được

truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.

- Bền vững về xã hội: Phản ánh sự liên hệ giữa sự phát triển tài nguyên

rừng và tiêu chuẩn xã hội, không diễn ra ngoài sự chấp thuận của cộng đồng.

- Bền vững về môi trường: Đảm bảo hệ sinh thái ổn định, giữ gìn bảo toàn

sản phẩm của rừng, đáp ứng khả năng phục hồi rừng trên quá trình tự nhiên.

Trên quan điểm kinh tế sinh thái thì hiệu quả về mặt môi trường của

rừng hoàn toàn có thể xác định được bằng giá trị kinh tế. Thực chất việc nâng

cao giá trị về môi trường sinh thái của rừng sẽ góp phần giảm những chi phí

cần thiết để góp phần phục hồi và ổn định môi trường sống. Với ý nghĩa này,

quản lý sử dụng rừng bền vững đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách, một giải

pháp quan trọng cho sự tồn tại lâu dài của con người và thiên nhiên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

1.2. Trên thế giới

Tài nguyên rừng có vai trò quan trọng trong cuộc sống của hầu hết người

dân vùng núi. Ở đây, rừng mang lại cho họ nhiều loại sản phẩm khác nhau như:

gỗ, củi, lương thực, thực phẩm, dược liệu,... Quan trọng hơn nữa là rừng đảm

bảo những điều kiện sinh thái cần thiết để duy trì các hoạt động sản xuất và đời

sống của người dân. Những cố gắng trong việc quản lý bảo vệ các khu rừng

cấm quốc gia thường gây nên những mâu thuẫn lợi ích giữa cá nhân, cộng

đồng dân cư địa phương với quốc gia. Từ đây, người ta nhận thức được rằng

công tác QLRBV phải hướng đến phục vụ các nhu cầu xã hội. Việc đáp ứng

các nhu cầu đó phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và ổn định lâu dài.

Theo tài liệu của FAO, công cụ để QLRBV phải bao gồm các quy trình công

nghệ, cả các chính sách kinh tế xã hội. Nó đảm bảo các hoạt động quản lý rừng

thoả mãn đồng thời những nguyên lý về kinh tế, xã hội và môi trường [32]. Có

thể nói quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững là phương thức quản lý được

xã hội chấp nhận, có cơ sở về mặt khoa học, có tính khả thi về mặt kỹ thuật và

hiệu quả về mặt kinh tế.

Trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, hệ thống quản lý tài nguyên rừng tập

trung đã thực hiện ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia phát triển

[17]. Trong giai đoạn này, vai trò của cộng đồng trong quản lý rừng ít được

quan tâm. Vì vậy, họ chỉ biết khai thác tài nguyên rừng lấy lâm sản và đất đai

để canh tác nông nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày càng tăng đã dẫn đến tình trạng

khai thác quá mức tài nguyên rừng và làm cho tài nguyên rừng ngày càng bị

suy thoái nghiêm trọng.

Nhằm khắc phục tình trạng khai thác rừng quá mức, các nhà khoa học cũng

đã nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng như: Các

nhà lâm học Đức (G.L.Hartig - 1840; Heyer - 1883; Hundeshagen - 1926) đã đề

xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đều tuổi; Các nhà lâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

học Pháp (Gournand - 1922) và Thuỵ Sỹ (H.Biolley - 1922) đã đề ra phương pháp

kiểm tra điều chỉnh sản lượng với rừng khai thác chọn khác tuổi, vv...

Vào cuối thế kỷ 20, khi tài nguyên rừng đã bị suy thoái nghiêm trọng thì

con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là có hạn và đang bị suy

giảm nhanh chóng, nhất là tài nguyên rừng nhiệt đới. Nếu theo đà mất rừng

mỗi năm khoảng 15 triệu ha như số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn 100 năm

nữa rừng nhiệt đới hoàn toàn bị biến mất, loài người sẽ chịu những thảm hoạ

khôn lường về kinh tế, xã hội và môi trường [12].

Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng, bảo tồn

ĐDSH trên phạm vi toàn thế giới, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ

chức, tiến hành nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước về bảo vệ và

phát triển rừng trong đó có Chiến lược bảo tồn (năm 1980 và điều chỉnh năm

1991), Tổ chức Gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983), Chương trình hành

động rừng nhiệt đới (TFAP năm 1985), Hội nghị quốc tế về môi trường và phát

triển (UNCED tại Rio de Janeiro năm 1992), Công ước quốc tế về buôn bán

các loài động thực vật quý hiếm (CITES), Công ước về Đa dạng sinh học

(CBD, 1992), Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994), Công ước

về chống sa mạc hoá (CCD, 1996), Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA,

1997). Những năm gần đây, nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia về

QLRBV đã liên tục được tổ chức [12]. Phân tích khái niệm về quản rừng bền

vững của Tổ chức gỗ quốc tế thì QLRBV là cách thức quản lý vừa đảm bảo

được các mục tiêu sản xuất, vừa đảm bảo giữ được các giá trị kinh tế, môi

trường và xã hội của tài nguyên rừng.

Là tổ chức đầu tiên áp dụng vấn đề quản lý rừng bền vững ở nhiệt đới,

Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế đã biên soạn một số tài liệu quan trọng như

“Hướng dẫn quản lý rừng tự nhiên nhiệt đới” (ITTO, 1990), “Tiêu chí đánh giá

quản lý bền vững rừng tự nhiên nhiệt đới” (ITTO, 1992), “Hướng dẫn thiết lập

hệ thống quản lý bền vững các khu rừng trồng trong rừng nhiệt đới” (ITTO,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

1993) và “Hướng dẫn bảo tồn ĐDSH của rừng sản xuất trong vùng nhiệt đới”

(ITTO, 1993 b). Tổ chức ITTO đã xây dựng chiến lược quản lý bền vững rừng

nhiệt đới, buôn bán lâm sản nhiệt đới cho năm 2000.

Hai động lực thúc đẩy sự hình thành hệ thống QLRBV là xuất phát từ các

nước sản xuất các sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn tái lập một lâm phận sản

xuất ổn định và khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn điều tiết

việc khai thác rừng để đáp ứng các chức năng sinh thái toàn cầu. Vấn đề đặt ra là

phải xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV. Trên quy mô quốc tế, hội đồng

quản trị rừng đã được thành lập để xét công nhận tư cách của các tổ chức xét và

cấp chứng chỉ rừng. Với sự phát triển của QLRBV, Canada đã đề nghị đặt vấn đề

QLRBV trong hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001 [27].

Hiện nay, trên thế giới đã có bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc

gia như: Canada, Thuỵ Điển, Malaysia, Indonesia,vv... và cấp quốc tế của tiến

trình Helsinki, tiến trình Montreal. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và tổ chức gỗ

nhiệt đới đã có bộ tiêu chuẩn “Những tiêu chí và chỉ báo quản lý rừng (P&C)”

đã được công nhận và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và các tổ chức

cấp chứng chỉ rừng đều dùng bộ tiêu chí này để đánh giá tình trạng quản lý

rừng và xét cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững cho các chủ rừng [26].

Tháng 8/1998, các nước trong khu vực Đông Nam Á đã họp hội nghị lần

thứ 18 tại Hà Nội để thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu chí

và chỉ số về QLRBV ở vùng ASEAN (Viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất

C&I của ASEAN cũng giống như C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng

chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc gia và cấp đơn vị quản lý [13]. Hiện nay, ở

các nước đang phát triển, khi sản xuất nông lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan

trọng đối với người dân nông thôn, miền núi, thì quản lý rừng theo hình thức

phát triển lâm nghiệp xã hội đang là một trong những mô hình được đánh giá

cao trên các phương diện kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

Với mục đích quản lý bền vững, các khu bảo vệ (protected areas) được

thành lập ngày càng nhiều, nhiều quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến việc

quản lý bền vững các khu bảo vệ. Nhiều chính sách và giải pháp được đưa ra

để áp dụng quản lý rừng bền vững. Năm 1996, tại Vườn quốc gia Bwindi

Impenetrable và Mgahinga Gorilla thuộc Uganda, Wild và Mutebi đã nghiên

cứu giải pháp quản lý, khai thác bền vững một số lâm sản và quản lý bảo vệ tài

nguyên thiên nhiên giữa Ban quản lý vườn và cộng đồng dân cư.

Trong báo cáo "Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi - Phạm vi vận

động" của Moenieba Isaacs và Najma Mohamed (2000) đã nghiên cứu và đưa

ra giải pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững tại Vườn quốc gia

Richtersveld chủ yếu dựa trên hương ước (Contractual Agreement) quản lý bảo

vệ tài nguyên, trong đó người dân cam kết bảo vệ ĐDSH trên địa phận của

mình còn chính quyền và Ban quản lý hỗ trợ người dân xây dựng hạ tầng và cải

thiện các điều kiện kinh tế - xã hội khác.

Tại Vườn Quốc gia Kruger của Nam Phi (2000), nhằm bảo vệ tài nguyên

bền vững, Chính phủ đã trao quyền sử dụng đất đai, chia sẽ lợi ích từ du lịch

cho người dân, ngược lại người dân phải tham gia quản lý và bảo vệ tài nguyên

tại Vườn quốc gia.

Theo Shuchenmann (1999), tại Vườn quốc gia Andringitra của

Madagascar, để thực hiện quản lý rừng bền vững, Chính phủ đảm bảo cho

người dân được quyền chăn thả gia súc, khai thác tài nguyên từ rừng phục hồi

để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập quán truyền thống khác như có

thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Ngược lại, người dân phải đảm bảo

tham gia bảo vệ sự ổn định của các hệ sinh thái trong khu vực.

Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng gia

Chitwan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững, cộng đồng dân cư vùng đệm được

tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong việc quản lý tài nguyên vùng

đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!