Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Đề Xuất Chương Trình Giáo Dục Bảo Tồn Tại Khu Bảo Tồn Loài Và Sinh Cảnh Loài Vượn Cao Vít Huyện Trùng Khánh Tỉnh Cao Bằng
PREMIUM
Số trang
79
Kích thước
1.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1045

Nghiên Cứu Đề Xuất Chương Trình Giáo Dục Bảo Tồn Tại Khu Bảo Tồn Loài Và Sinh Cảnh Loài Vượn Cao Vít Huyện Trùng Khánh Tỉnh Cao Bằng

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

---------------------

NÔNG DIỆU HUẾ

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC BẢO TỒN

TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH CẢNH LOÀI VƯỢN CAO VÍT

HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nôi, 20 ̣ 12

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

--------------------

NÔNG DIỆU HUẾ

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC BẢO TỒN

TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH CẢNH LOÀI VƯỢN CAO VÍT

HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng

Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. ĐỒNG THANH HẢI

Hà Nôi, 20 ̣ 12

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Khu bảo tồn Loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít (VCV) thuộc huyện

Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng là phần nằm ở phía tây bắc của dãy núi đá vôi

khu vực Đông Bắc của Việt Nam, tiếp giáp với huyện Trịnh Tây, tỉnh Quảng

Đông, Trung Quốc. Mặc dù KBT đã được thành lập và nhiều hoạt động Bảo

tồn được triển khai tại đây tuy nhiên, quần thể VCV đã và đang chịu ảnh

hưởng bởi các hoạt động của người dân sống tại đây. Cụ thể như: lấy củi, lấy

gỗ sửa nhà, sửa guồng nước, chăn thả gia súc…những hoạt động trên đã tác

động không nhỏ tới sinh cảnh sống của loài Vượn Cao Vít và ảnh hưởng tới

việc phục hồi quần thể loài trong tương lai. Một trong những nguyên nhân

dẫn tới hiện tượng này là thiếu chương trình giáo dục bảo tồn dài hạn, các

nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc điều tra cơ bản về tình hành dân sinh kinh

tế, nhu cầu sử dụng tài nguyên, sinh thái dinh dưỡng và sinh cảnh sống của

Vượn…. Được tiến hành bởi tổ chức Bảo vệ Động, Thực vật hoang dã quốc

tế (FFI) và một số tổ chức khác.

Như vậy, việc tiến hành xác định nhu cầu bảo tồn của người dân thuộc

các xã nói trên làm cơ sở cho việc thiết kế và tiến hành các chương trình giáo

dục bảo tồn là nhu cầu cấp thiết đối với sự thành công của công tác bảo tồn

Vượn Cao Vít tại Trùng Khánh trong thời gian dài. Vì những lý do trên tôi tiến

hành đề tài “Nghiên cứu đề xuất các chương trình giáo dục bảo tồn tại Khu

bảo tồn loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao

Bằng”. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho việc đề xuất các chương

trình giáo dục bảo tồn cho người dân sống tại khu vực trong tương lai.

2

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Các khái niệm

Khái niệm giáo dục môi trường chính thức được sử dụng lần đầu tiên

vào năm 1972, tại Hội nghị toàn cầu lần thứ nhất về Môi trường Nhân văn

được tổ chức ở Stockholm (Thụy Điển) (Matarasso, 2004). Từ đó cho đến nay

có rất nhiều định nghĩa và khái niệm liên quan đến cụm từ này, dưới đây là

một số định nghĩa được sử dụng rộng rãi.

1.1.1. Giáo dục môi trường

- “Giáo dục môi trường là quá trình nhận ra các giá trị và làm rõ khái

niệm để xây dựng những kỹ năng và thái độ cần thiết, giúp hiểu biết và đánh

giá đúng mối tương quan giữa con người với nền văn hóa và môi trường vật

lý xung quanh, giáo dục môi trường cũng tạo cơ hội cho việc thực hành để ra

quyết định và tự hình thành quy tắc ứng xử trước những vấn đề liên quan đến

chất lượng môi trường” (IUCN, 1970).

- “Giáo dục môi trường là một quá trình phát triển những tình huống

dạy/học hiệu quả giúp người dạy và học tham gia giải quyết những vấn đề

môi trường liên quan, đồng thời tìm ra một lối sống có trách nhiệm và được

thông tin đầy đủ” (Wigley, 2000).

Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về giáo dục môi trường, tất cả

đều có một số đặc điểm cơ bản sau:

+ GDMT là một quá trình diễn ra trong một khoảng thời gian, ở nhiều

địa điểm khác nhau, thông qua những kinh nghiệm khác nhau và bằng những

phương thức khác nhau.

+ GDMT nhằm thay đổi hành vi

3

+ Môi trường học tập là chính môi trường và những vấn đề có trong

thực tế.

+ GDMT liên quan đến việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về cách

sống.

+ Trong GDMT, việc học phải tập trung vào người học và lấy hành

động làm cơ sở.

1.1.2. Cộng đồng

Cộng đồng nói chung thường được hiểu là những nhóm người, được

tập hợp dưới nhiều hình thức khác nhau như theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp,

theo huyết thống, theo khu vực địa lý, theo hệ thống quyền lực, theo tổ chức

đoàn thể, theo sở thích,… (Matarasso, 2004). Tuy nhiên, cộng đồng trong đề

tài này được xem xét như một đơn vị cấp địa phương của một tổ chức xã hội

bao gồm các cá nhân, gia đình, thể chế và các cấu trúc khác đóng góp cho

cuộc sống hàng ngày của xã hội, của một nhóm người trong một khu vực địa

lý xác định, có thể được biến đổi bởi quá trình vận động lịch sử (Matarasso,

2004).

Cho đến nay, còn nhiều ý kiến về sự khác nhau giữa giáo dục bảo tồn

(GDBT) và giáo dục môi trường (GDMT). Nhiều người cho rằng, GDBT và

GDMT là 2 khái niệm tương đồng với nhau, có thể thay khái niệm GDBT

bằng GDMT và ngược lại. Trong khuôn khổ đề tài, khái niệm GDBT được

dùng để chỉ các hoạt động GDMT có sự tham gia của cộng đồng dân địa

phương nhằm thay đổi hành vi, hướng tới mục tiêu bảo tồn (Matarasso và

cộng sự, 2004). Tuy vậy, một chương trình GDBT không chỉ dừng lại ở các

hoạt động giáo dục như: tập huấn nâng cao kỹ năng mà còn có thể là các

chương trình truyền thông nhằm cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức,…

hoặc các chương trình vận động chính sách nhằm xóa bỏ những trở ngại về

4

mặt chính sách đối với việc thực hiện các hành vi bảo tồn (cả hành vi tích cực

hiện tại và các hành vi bảo tồn mới).

Một chương trình GDBT cần làm rõ đâu là các hành vi gây ra các vấn

đề bảo tồn/môi trường. Nguyên nhân của các hành vi đó là gì? Do thiếu nhận

thức, kiến thức, kỹ năng, không có thái độ đúng đắn, thiếu lựa chọn hay bị

cản trở bởi các yếu tố kinh tế, tài chính? Xuất phát từ những quan điểm trên

đây, đề tài tiến hành đánh giá nhận thức và thái độ của người dân với vấn đề

bảo tồn tại địa phương, xác định những hoạt động ảnh hưởng đến tài

nguyên/môi trường của người dân, tìm ra những nguyên nhân của những hành

động đó, từ đó tìm hiểu những khó khăn và thuận lợi của người dân khi tham

gia công tác bảo tồn dựa vào cộng đồng bên cạnh những cơ hội tiếp cận, làm

cơ sở xây dựng những chương trình giáo dục bảo tồn sau này. Những nội

dung này của đề tài sẽ xuyên suốt quá trình tổng quan vấn đề nghiên cứu và

phương pháp nghiên cứu của đề tài.

1.2. Bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng

Để hiểu rõ hơn về bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng, chúng tôi

muốn làm rõ khái niệm cộng đồng. Cộng đồng thường được hiểu là những

nhóm người, được tập hợp dưới nhiều hình thức khác nhau như theo lứa tuổi,

nghề nghiệp, huyết thống, hệ thống quyền lực, tổ chức đoàn thể [9], … Đối

với đề tài này, cộng đồng ở đây là nhân dân địa phương; cộng đồng dân tộc

Tày, Nùng, Kinh ở 3 xã Phong Nậm, Ngọc Khê, Ngọc Côn trong việc tham

gia bảo tồn Vượn Cao Vít tại Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.

Một trong những tồn tại quan trọng dẫn đến sự kém hiệu quả trong

quản lý tài nguyên nói chung và các loài nói riêng thiếu sự tham gia của người

dân địa phương. Trước đây, các khu bảo tồn được xem như những "ốc đảo"

hay như những cái "chai nút kín", đó là sự tách biệt một khu vực tự nhiên ra

5

khỏi thế giới loài người. Cách tiếp cận đó đã biểu hiện những thất bại do

những áp bức xã hội và sinh thái, cả trong và ngoài khu bảo tồn. Thực tế cho

thấy khu bảo tồn vẫn cần có một phần được bảo vệ nghiêm ngặt, được gọi là

vùng lõi. Bên cạnh đó cần thúc đẩy phát triển kinh tế thân thiện với môi

trường, phát triển giáo dục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ở các

phần xung quanh được gọi là vùng đệm và vùng chuyển tiếp, trong đó người

dân địa phương đóng vai trò chủ chốt, đảm bảo cho công tác bảo tồn đạt được

hiệu quả lâu dài và bền vững.

Việc lôi cuốn các cộng đồng địa phương vào việc quy hoạch và quản lý

các khu bảo tồn là yếu tố cực kỳ quan trọng, bởi vì họ là những người hiểu

biết tường tận nhất việc sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên trong vùng.

Vì vậy, họ là người quyết định cuối cùng và cần phải được tham gia vào các

quá trình lập kế hoạch và thực hiện quản lý.

Cộng đồng dân cư các địa phương ở các vùng rừng núi hầu như rất ít,

thậm chí không quan tâm đến công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên, đặc

biệt là tài nguyên động vật hoang dã kể cả thú linh trưởng. Lý do khiến họ

chưa quan tâm một phần vì do nhận thức, phần vì kinh tế khó khăn và phần

quan trọn hơn là chưa tạo được động lực thúc đẩy họ tham gia.

Cho đến nay, đại đa số người dân trên mọi miền đất nước, đặc biệt là

đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa chưa có nhận thức đúng đắn về tầm

quan trọng cũng như sự cần thiết phải bảo tồn thú linh trưởng. Họ chỉ quan

tâm đến việc tìm kiếm và làm thế nào khai thác nguồn tài nguyên này được

nhiều nhất để phục vụ cho cuộc sống thường nhật của mình. Hơn nữa, do nền

kinh tế tự cung tự cấp, an toàn lương thực chưa được đảm bảo, nên các nhà

quản lý địa phương thường có thiên hướng tìm kiếm mọi giải pháp phục hồi

và tăng trưởng kinh tế mà chưa quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển tài

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!