Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên Cứu Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Làm Căn Cứ Đề Xuất Phương Án Quy Hoạch Sử Dụng Đất Phát Triển Sản Xuất Nông Lâm Nghiệp Tại Xã Hợp Hòa Huyện Lương Sơn Tỉnh Hòa Bình
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------
LÊ THỊ THANH MAI
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ
ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP TẠI XÃ HỢP HÒA,
HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
HÀ NỘI, 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------
LÊ THỊ THANH MAI
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ
ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP TẠI XÃ HỢP HÒA,
HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Trần Hữu Viên
HÀ NỘI, 2010
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai - nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, một trong các
yếu tố cơ bản của một nền sản xuất xã hội - là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa
bàn dân cư phát triển dân sinh kinh tế xã hội (KTXH), bao gồm không gian tự
nhiên và không gian nhân văn. Các hoạt động sinh kế của con người có tác
động trực tiếp và gián tiếp lên đất đai. Vì vậy, sử dụng hợp lý đất đai là yêu
cầu cần thiết cho sự phát triển bền vững. Chỉ có quy hoạch sử dụng đất
(QHSDĐ) hợp lý, đất đai mới có thể đáp ứng được yêu cầu đó.
QHSDĐ là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế
của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao thông
qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất, tổ chức sử dụng đất như một tư
liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất và nâng cao
hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và
bảo vệ môi trường [20].
Vì vậy, việc tổ chức, quản lý sao cho phù hợp với từng địa bàn cụ thể,
đảm bảo sử dụng đất đai, tài nguyên hợp lý, có hiệu quả và bền vững, an toàn
sinh thái là nhiệm vụ của QHSDĐ. Muốn QHSDĐ hiệu quả, cần thực hiện từ
những đơn vị hành chính nhỏ nhất như cấp xã bởi cấp xã là đơn vị quản lý
hành chính nhỏ nhất trong hệ thống chính quyền, có vai trò quan trọng trong
ổn định KTXH và an ninh quốc phòng.
Tại các xã miền núi, sự đa dạng về văn hóa và trình độ sản xuất đã tạo
nên không gian nhân văn vô cùng đa dạng; các hoạt động sinh kế của người
dân địa phương có tác động không nhỏ vào không gian tự nhiên trên địa bàn
họ sinh sống, nhất là thông qua hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, các tác
động này càng trở nên rõ nét.
Mặc dù vậy, công tác QHSDĐ cấp xã hiện nay vẫn còn một số tồn tại
về phương pháp tiếp cận, công tác điều tra cơ bản, cơ sở thực tiễn của đất đai.
2
Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ để xây
dựng phương án QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp cho một xã là nội dung có
ý nghĩa thiết thực trong hoàn cảnh hiện nay.
Hợp Hòa là xã thuộc khu vực II miền núi của huyện Lương Sơn, tỉnh
Hòa Bình, có phần đông là người dân tộc Mường sinh sống từ lâu đời, việc sử
dụng đất đai của đại bộ phận nhân dân trong xã là nông lâm nghiệp theo
phong tục tập quán canh tác thuần nông lâu đời, thực tiễn sử dụng đất nông
lâm nghiệp còn manh mún và chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, việc người dân
chưa có nhận thức đầy đủ về pháp luật đất đai, sử dụng đất theo phong tục, sở
thích và canh tác không đúng kỹ thuật đã ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả
của SDĐ và môi trường. Vì thế, việc quy hoạch phân bổ lại quỹ đất trên địa
bàn xã sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu KTXH, nâng cao đời sống nhân
dân và cân đối được nhu cầu sử dụng đất đai là hết sức cần thiết để đảm bảo
môi trường sinh thái và các nguồn tài nguyên được sử dụng bền vững.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn trên, đề tài: "Nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất,
phát triển sản xuất nông lâm nghiệp tại xã Hợp Hòa, huyện Lương Sơn,
tỉnh Hòa Bình" được thực hiện.
Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp, đề tài chỉ giới hạn ở việc
vận dụng cơ sở lý luận của QHSDĐ và nghiên cứu cơ sở thực tiễn cho việc đề
xuất phương án QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp, PTSX kinh tế hộ gia đình
phù hợp với điều kiện tự nhiên, KTXH tại xã Hợp Hòa, huyện Lương Sơn,
tỉnh Hòa Bình.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới và Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về QHSDĐ,
PTSX nông lâm nghiệp. Mặc dù có các nghiên cứu ở các mức độ rộng hẹp
khác nhau nhưng những nội dung chủ yếu được các nhà khoa học quan tâm
chính là các yếu tố về phát triển bền vững (PTBV); các nghiên cứu này đều
hướng đến mục đích chung là SDĐ và PTSX nông lâm nghiệp đáp ứng được
các yêu cầu: Có hiệu quả về mặt kinh tế, lợi ích về xã hội, thích hợp về môi
trường sinh thái.
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Quy hoạch vùng lãnh thổ là hệ thống các biện pháp xây dựng một cơ
cấu kinh tế hợp lý với cơ cấu đất đai và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên, các công trình KTXH, văn hóa, nguồn lao động, tăng cường xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế, xây
dựng nông thôn mới và xã hội mới. Quy hoạch vùng lãnh thổ là khoa học về
quản lý tài nguyên mang cả 3 tính chất kinh tế, kỹ thuật và pháp lý; là cơ sở
để lập dự án đầu tư phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới [19]. Trên
thế giới, đã có nhiều nước tiến hành quy hoạch vùng lãnh thổ với các cách
thức khác nhau, tiêu biểu là các quốc gia Bungari, Pháp, Thái Lan.
1.1.1.1. Quy hoạch vùng ở Pháp
Các hoạt động sản xuất trong quy hoạch vùng ở Pháp theo các hướng
sau: Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình, công
nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển; hoạt
động khai thác rừng; hoạt động đô thị, khai thác chế biến; nhân lực theo các
dạng thuế thời vụ, các loại lao động nông - lâm nghiệp; cân đối xuất nhập, thu chi
và các cân đối khác. Quy hoạch nhằm mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng
tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội.
4
1.1.1.2. Quy hoạch vùng ở Bungari
Mục đích của quy hoạch vùng lãnh thổ ở quốc gia này là: Sử dụng hiệu
quả nhất lãnh thổ của đất nước, lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo
vệ; lãnh thổ thiên nhiên không có vùng nông thôn, sự tác động của con người
vào đây rất ít; lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, ít
có sự can thiệp của con người, thuận lợi cho kinh doanh về du lịch; lãnh thổ là
môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và có sự can thiệp của con
người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp; lãnh thổ là môi trường nông
nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có sự tác động của con người;
lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
- Nội dung của quy hoạch vùng lãnh thổ Bungari là: Cụ thể hóa, chuyên
môn hóa sản xuất nông nghiệp; phối hợp giữa sản xuất công nghiệp và sản
xuất nông nghiệp theo ngành dọc; xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ
công cộng và sản xuất; tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ
công cộng liên hợp trong phạm vi hệ thống nông thôn; bảo vệ môi trường
thiên nhiên, tạo điều kiện tốt cho nhân dân lao động, sinh hoạt.
1.1.1.3. Quy hoạch vùng ở Thái Lan
Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ
thống quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: Quốc gia, vùng, địa phương.
Trong đó vùng (Region) được coi như là một á miền (Supdivision) của đất
nước, đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các
phương diện khác nhau như : Phân bố dân cư, địa hình, khí hậu…
- Quy mô diện tích của vùng phụ thuộc vào diện tích của đất nước.
- Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo
2 cách sau: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những
mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng. Quy hoạch vùng được
giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng, các kế hoạch vùng được đóng góp
vào xây dựng kế hoạch quốc gia.
5
1.1.2. Quy hoạch lâm nghiệp
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế
tư bản chủ nghĩa.
Đầu thế kỷ XVIII, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết
việc “Khoanh khu chặt luân chuyển” chia đều cho từng năm theo trữ lượng
hoặc diện tích phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai
thác ngắn.
Sau Cách mạng công nghiệp (thế kỷ IXX), "Phương thức kinh doanh
rừng hạt" với chu kỳ khai thác dài và phương thức “Chia đều” của Hartig ra
đời thay thế cho các phương pháp trước đó. Hartig đã chia đều chu kỳ khai
thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng, trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng
năm. Đến năm 1816, xuất hiện "Phương thức luân kỳ lợi dụng" của H. Cotta,
Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống
chế lượng chặt hàng năm. Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời
và đến cuối thế kỷ XIX, xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của
Judeich.
Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Cấp tuổi” chịu ảnh hưởng
của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, tức là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi
cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích
khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở
các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh
tế” và phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc
điểm cụ thể của mỗi lâm phần để tiến hành phân tích, xác định sản lượng và
biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành
“Phương pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra” [21].
1.1.3. Quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp (QHNLN)
1.1.3.1. Lược sử QHNLN
Ngay từ thế kỳ XVII, QHNLN đã được xác nhận như một chuyên
ngành bắt đầu từ các quy hoạch vùng. Vào thời gian này, quy hoạch quản lý
6
rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như một lĩnh vực phát triển ở mức cao
trên cơ sở QHSDĐ (Olschowy, 1975).
Đến thế kỳ XIX, với các khái niệm "lập địa hợp lý", "năng suất sử
dụng" (Weber, 1921) đã mở đầu thời kỳ quy hoạch phát triển nông nghiệp
trên cơ sở QHSDĐ theo địa lý với vùng sản xuất là nền tảng của quy hoạch
vùng cho sản xuất lâm nông nghiệp.
Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ
vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm
1946 Jacks G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với
tên “Phân loại đất đai cho QHSDĐ”. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến
đánh giá khả năng của đất cho QHSDĐ [8]
Năm 1966, Hội đất học và Hội nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về
hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong
QHSDĐ. Ngoài ra còn một số chuyên khảo khác cũng ra đời đề cập đến “môi
trường con người” trong đánh giá khả năng thích hợp của đất cho quy hoạch
nông nghiệp và lâm nghiệp [8].
Tại Đức, tài liệu “khái niệm về SDĐ khác nhau” đã được xuất bản bởi
Haber (1972) được coi là lý thuyết sinh thái về QHSDĐ dựa trên quan điểm
về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định
của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh.
Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức
FAO tổ chức nhiều hội nghị về Phát triển nông thôn và QHSDĐ. Các hội nghị
đều khẳng định rằng quy hoạch các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm
nghiệp, chế biến nhỏ… phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai. Năm 1969,
1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thụy Sỹ) để
thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn [8].
7
1.1.3.2. Các nghiên cứu về phương pháp QHNLN cấp địa phương
Phương pháp QHNLN cấp địa phương có thể được khái quát bằng 2
cách tiếp cận chủ yếu: Tiếp cận từ trên xuống (Top –down Approach) và tiếp
cận từ dưới lên (Botton-up Approach). Cách tiếp cận thứ nhất được hình
thành từ khi có quy hoạch ra đời cho đến nay. Cách tiếp cận thứ hai được hình
thành khi các nhà xã hội học chứng minh rằng cộng đồng nông thôn có vai trò
không thể thiếu trong lập kế hoạch và quản lý tài nguyên của cộng đồng. Từ
đây, thuật ngữ “Quy hoạch dựa vào cộng đồng” (community-based planning)
bắt đầu xuất hiện [8].
Gilmour (1997) đã phân biệt hai loại tiếp cận, đó là tiếp cận kinh điển
(classical approach) và tiếp cận lấy người dân làm trung tâm (people’s
centered approach) Những nghiên cứu của ông về quy hoạch và quản lý rừng
cộng đồng ở Nepal chứng tỏ những ưu thế về tiếp cận mới trong xây dựng và
thực hiện kế hoạch phát triển cộng đồng [8].
Từ cuối những năm 1970, các phương pháp điều tra đánh giá cùng
tham gia được nghiên cứu rộng rãi như: Đánh giá nhanh nông thôn (RRA),
phương pháp quá trình sáng tạo, phân tích HTCT cho QHSDĐ vi mô. vào
những năm 1980 và đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, những thử nghiệm
các phương pháp RRA trong phát triển nông thôn và lập kế hoạch SDĐ được
thực hiện trên 30 nước phát triển cho thấy ưu thế của các phương pháp này
trong lập kế hoạch lâm nông nghiệp cấp thôn bản [9].
Luning (1990) lần đầu tiên nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với
phân tích HTCT cho QHSDĐ. Năm 1994, FAO đã công bố quy trình kết hợp
đánh giá đất đai với phân tích HTCT cho QHSDĐ (LEFA), hạn chế là đòi hỏi
hệ thống thông tin phân tích lớn, khó áp dụng cho quy hoạch địa phương.
Theo Erwin (1999), phân tích HTCT là công cụ cho phân tích các trở ngại
trong hệ thống nông trại hộ gia đình để xác định mục tiêu quy hoạch, xác định
các kiểu SDĐ hiện tại và phương pháp SDĐ mới, đánh giá phương án SDĐ
khác nhau nhằm mục đích lựa chọn phương án một cách tốt nhất [8].
8
1.1.3.3. Các nghiên cứu xây dựng quy trình QHSDĐ
FAO (1976) đã đề xuất cấu trúc khung QHSDĐ với 10 điểm chính.
Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng SDĐ được xét như là
các bước chính trong quá trình quy hoạch.
Năm 1980, Buchwald đề xuất quá trình quy hoạch 8 bước, trong đó có
những nghiên cứu đánh giá về sinh thái và KTXH được đề cập tách biệt ở các
bước khác nhau. Điểm hạn chế này tạo nên sự thiếu tính liên ngành trong quy
hoạch. Maydell (1984) cho rằng 4 điểm chính trong quá trình QHNLN các
nước nhiệt đới là: Phân tích xu hướng nghĩa là phân tích hiện trạng và phát
triển; xác định mục tiêu và nhiệm vụ; phân tích phương pháp; tiến hành đánh
giá [8]. Năm 1985, một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế được FAO thành lập
nhằm xây dựng một quy trình QHSDĐ.
Wikingson (1985) nghiên cứu QHSDĐ theo khía cạnh luật pháp, ông
đề nghị một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển nhằm mục đích:
Cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất đai, thiết lập
các tổ chức SDĐ phù hợp, yêu cầu sử dụng theo quy trình kế hoạch và kỹ
thuật, tăng cường sự thông hiểu về SDĐ và khuyến khích xây dựng cơ chế
giám sát và cưỡng chế’’ [8].
Theo Purnell (1988), mục tiêu của QHSDĐ là thiết lập các kế hoạch
thực tiễn có khả năng sử dụng tốt nhất các loại đất đai nhằm tăng sản xuất
quốc gia, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải
trí. 4 câu hỏi nền tảng của quy hoạch đất đai: Các vấn đề nào đang tồn tại và
mục tiêu quy hoạch là gì? Có các phương án SDĐ nào? Phương án nào tốt
nhất? Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?
Xem xét đến các khía cạnh riêng, có thể dẫn ra một số quy trình quy
hoạch được nhiều chương trình, dự án áp dụng, theo Zimmermann (1989) tổ
chức GTZ của Đức đưa ra và thử nghiệm quy trình quy hoạch tại nhiều nước,
trong đó có dự án Lâm nghiệp xã hội Sông Đà của Việt Nam. Quy trình này
9
dựa trên quá trình phân tích tình hình, chuẩn đoán hiện trạng và phân tích mục
tiêu (ZOPP) được sử dụng. Năm 1987, Spitzer đề xuất các bước QHSDĐ đa
mục tiêu, trong đó nhấn mạnh xác định mục tiêu và chọn phương pháp lập kế
hoạch như sau: Chuẩn đoán trong thu thập thông tin và dự đoán cơ hội, tư vấn
trong đánh giá, lập kế hoạch và điều phối, thực hiện trong điều phối và giám
sát [8].
1.1.3.4. Lược sử hình thành và phát triển các HTCT nông lâm nghiệp trên thế
giới
Trên thế giới, hoạt động canh tác nông nghiệp đã được hình thành từ
lâu trong lịch sử. Từ hoạt động canh tác này mà các HTCT nông nghiệp dần
được hình thành.
Hệ thống nông nghiệp là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp các
ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thỏa mãn các nhu cầu.
Nó biểu hiện một sự tác động qua lại giữa một hệ thống sinh học - sinh thái và
môi trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống xã hội - văn hóa, qua các hoạt
động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật (Vissac, 1979) [14].
Hệ thống trồng trọt là hoạt động sản xuất cây trồng trong một nông hộ.
Hệ thống cây trồng là tổ hợp cây trồng bố trí theo không gian và thời gian với
các biện pháp kỹ thuật được thực hiện [14].
HTCT là một phức hợp của đất đai, cây trồng, vật nuôi, lao động và các
nguồn lợi đặc trưng khác trong một ngoại cảnh mà nông hộ quản lý theo sở
thích, khả năng và kỹ thuật có thể có trong một phạm vi nhất định để tạo ra
sản phẩm nông nghiệp thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc của con người [4].
Du canh là HTCT đầu tiên trên thế giới. Đây là kiểu SDĐ nông nghiệp
trong đó đất được phát quang để canh tác trong thời gian ngắn hơn thời gian
bỏ hóa (Conklin, 1957). Cho đến nay, phương thức này vẫn được sử dụng phổ
biến ở các vùng nhiệt đới. Tuy nhiên về chiến lược PTBV, du canh không
10
được nhiều Chính phủ và cơ quan quốc tế coi trọng bởi vì du canh được coi là
phí phạm về sức người và tài nguyên đất đai, là nguyên nhân gây mất rừng, là
nguyên nhân chính gây nên tình trạng xói mòn và thoái hóa đất xảy ra nghiêm
trọng (Grinnell, 1977) [14].
Trên cơ sở giải quyết những nhược điểm của phương thức du canh đã
có một số mô hình, HTCT mới ra đời. Trong các PTCT nông nghiệp, canh tác
nông lâm kết hợp (NLKH) là một PTCT lâu đời trên thế giới.
Theo King (1987), thời trung cổ ở châu Âu đã tồn tại một tập quán phổ
biến là chặt và đốt rồi sau đó tiếp tục trồng cây thân gỗ cùng với cây nông
nghiệp. HTCT này vẫn tồn tại ở Phần Lan cho đến cuối thế kỷ XIX và vẫn
còn ở một số vùng của Đức cho đến tận những năm 1920 [23]. Trong khi đó
nhiều PTCT truyền thống ở châu Á, châu Phi và khu vực nhiệt đới châu Mỹ
đã có sự phối hợp cây thân gỗ với cây nông nghiệp để nhằm mục đích chủ
yếu là hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và tạo ra các sản phẩm phụ khác như
gỗ, củi, đồ gia dụng…
Taungya được coi là một PTCT NLKH có thể chấp nhận được cả về
mặt hiệu quả kinh tế và môi trường sinh thái bằng sự kết hợp đồng thời cả hai
loại cây nông nghiệp và cây công nghiệp. Vào cuối thế kỷ XIX, hệ thống
Taungya bắt đầu phát triển rộng rãi ở Myanmar dưới sự bảo hộ của thực dân
Anh. Trong các đồn điền trồng gỗ tếch (Techtona grandis) người lao động
được phép trồng cây lương thực giữa các hàng cây chưa khép tán để giải
quyết nhu cầu lương thực hàng năm. Sau đó phương thức này được áp dụng
rộng rãi ở Ấn Độ và Nam Phi [22].
Blandford (1988) đã mô tả Taungya dường như là một PTCT cũ được
áp dụng mà ở đó điều kiện hoàn cảnh rừng được tái tạo trên những trang trại
của người nông dân và theo đó người ta thu được những hiệu quả có ích từ
cấu trúc rừng. Chính vì vậy các hệ thống Taungya cần phải được xem như là