Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu cơ sở khoa học, thực tiễn điều hành cấp nước mùa cạn cho Đồng bằng sông Hồng-Phân tích ảnh hưởng của hồ chứa Hoà Bình và Thác Bà đến chế độ dòng chảy vùng hạ lưu sông Hồng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Bé Khoa häc vµ c«ng nghÖ Bé NN vµ PT n«ng th«n
Tr−êng ®¹i häc thñy lîi
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP NHÀ NƯỚC
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC
VÀ THỰC TIỄN ĐIỀU HÀNH CẤP NƯỚC
MÙA CẠN CHO ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
B¸o c¸o ®Ò tµi nh¸nh
Ph©n tÝch ¶nh h−ëng cña hå chøa hßa b×nh vµ th¸c
bµ ®Õn chÕ ®é dßng ch¶y vïng h¹ l−u s«ng hång
Chñ nhiÖm ®Ò tµi: GS.TS. Lª Kim TruyÒn
Chñ nhiÖm chuyªn ®Ò: PGS.TS. Vò Minh C¸t
6757-3
12/3/2008
Hµ Néi, th¸ng 12 n¨m 2007
Danh s¸ch nh÷ng ng−êi tham gia thùc hiÖn chÝnh ®Ò tµi nh¸nh
TT Họ và tên Đơn vị Chức danh Thành viên
1 Vò Minh C¸t ĐHTL PGS. TS Chủ nhiệm
đề tài nhánh
2 NCS. Thái Gia Khánh ViÖn QH NCS Tham gia
3 Nguyễn Thị Thu Hà ĐHTL KS Tham gia
4 Đỗ Thị Bính ĐHTL HVCH Tham gia
5 Lê Thị Tuyết Anh ĐHTL KS. Tham gia
6 Bùi Du Dương ĐHTL KS. Tham gia
Lêi nãi ®Çu
§Ò tµi nh¸nh “Ph©n tÝch vµ xö lý sè liÖu thñy v¨n” lµ ®Ò tµi sè 1 trong
tæng sè 11 ®Ò tµi nh¸nh cña ®Ò tµi nghiªn cøu khoa häc ®éc lËp cÊp nhµ n−íc
“Nghiªn cøu c¬ së khoa häc vµ thùc tiÔn ®iÒu hµnh cÊp n−íc cho mïa c¹n
®ång b»ng s«ng Hång” §Ò tµi nh¸nh thùc hiÖn c¸c néi dung chÝnh sau:
- Thu thËp, ph©n tÝch, xö lý c¸c sè liÖu khÝ t−îng thñy v¨n
- C¸c tµi liÖu vÒ quy ho¹ch vµ d©n sinh, kinh tÕ
- C¸c tµi liÖu ®Þa h×nh
- C¸c tµi liÖu thñy v¨n quan tr¾c t¹i c¸c tuyÕn c«ng tr×nh
C¸c néi dung trªn ®−îc ph©n tÝch, tr×nh bµy cô thÓ trong néi dung cña
bèn chuyªn ®Ò thµnh phÇn thÓ hiÖn trong b¸o c¸o nµy.
§Ò môc nghiªn cøu kh«ng thÓ triÓn khai thµnh c«ng vµ ®¹t ®−îc kÕt
qu¶ nÕu thiÕu sù ®éng viªn vµ chØ ®¹o cña Bé Khoa häc vµ C«ng nghÖ, Bé
N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n, Tr−êng §¹i häc Thñy lîi, Ban chñ
nhiÖm ®Ò tµi, Phßng Qu¶n lý khoa häc, khoa Thñy v¨n – Tµi nguyªn n−íc.
Thay mÆt cho nhãm nghiªn cøu, chóng t«i xin bµy tá lßng biÕt ¬n s©u s¾c.
Nhãm thùc hiÖn chuyªn ®Ò xin bµy tá lßng biÕt ¬n ®Õn Trung t©m t−
liÖu, Côc m¹ng l−íi, Trung t©m KhÝ t−îng thñy v¨n Quèc gia, §µi KhÝ t−îng
thñy v¨n §«ng B¾c vµ rÊt nhiÒu c¬ quan liªn quan ®· gióp chóng t«i thùc
hiÖn tèt viÖc thu thËp, ph©n tÝch vµ xö lý sè liÖu.
Do thêi gian vµ tr×nh ®é cã h¹n, nh÷ng kÕt qu¶ nghiªn cøu ®¹t ®−îc
ch¾c cßn nhiÒu h¹n chÕ, ch−a ®¸p øng ®Çy ®ñ yªu cÇu cña thùc tÕ. TËp thÓ
t¸c gi¶ mong t×m ®−îc sù c¶m th«ng vµ nhÊt lµ sù gãp ý cho nh÷ng c«ng t¸c
nghiªn cøu tiÕp cña ®«ng ®¶o c¸c chuyªn gia trong vµ ngoµi ngµnh, c¸c b¹n
®ång nghiÖp cïng c¸c ®éc gi¶ ®äc b¸o c¸o nµy.
Xin ch©n thµnh c¸m ¬n.
Hµ néi ngµy 30 th¸ng 10 n¨m 2007
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ LƯU VỰC SÔNG HỒNG 3
I Đặc điểm địa lý tự nhiên 3
II Đặc điểm khí hậu 10
III Hiện trạng và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 13
PHẦN II: ỨNG DỤNG MÔ HÌNH MIKE11 NGHIÊN CỨU,
TÍNH TOÁN HIỆN TRẠNG DÒNG CHẢY MÙA CẠN VÀ
DIỄN BIẾN XÂM NHẬP MẶN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
- THÁI BÌNH CÓ XÉT TỚI ẢNH HƯỞNG CỦA HỒ HÒA
BÌNH, HỒ THÁC BÀ
26
I Mô hình MIKE 11 và khả năng ứng dụng 26
II
Ứng dụng mô hình MIKE 11 đánh giá hiện trạng dòng chảy
mùa cạn và diễn biến xâm nhập mặn đồng bằng sông Hồng –
sông Thái Bình do ảnh hưởng điều tiết của hồ chứa Hoà Bình,
Thác Bà và thủy triều biển
32
Tổng quan về mô hình MIKE11 32
Các tài liệu cơ bản phục vụ tính toán 35
Hiệu chỉnh và kiểm định mô hình 36
Kết quả hiệu chỉnh và kiểm định mô hình 54
Kết luận phần II 57
PHẦN III: CÁC PHƯƠNG ÁN TÍNH TOÁN 58
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
Lưu vực sông Hồng – Thái Bình là lưu vực sông lớn nhất miền Bắc Việt
Nam với tổng diện tích lưu vực 169.000 km2
, trong đó phần thuộc Trung Quốc
là 81.240 km2
(chiếm 48,1% diện tích lưu vực), thuộc Lào là 1.100 km2 (chiếm
0,6%) và Việt Nam là 86.660 km2
(chiếm 51,3%).
Hệ thống sông Hồng – Thái Bình có nguồn tài nguyên nước khá phong
phú với tổng lượng dòng chảy năm trung bình nhiều năm trên toàn lưu vực là
133,68 tỷ m3
, trong đó 118,04 tỷ m3
tại Sơn Tây (Flv = 143.600 km2
). Tuy nhiên,
có tới 49% diện tích lưu vực thuộc lãnh thổ Trung Quốc mà chúng ta không có
hoặc rất ít thông tin về tài nguyên nước, các hoạt động kinh tế xã hội khác v.v..
gây không ít khó khăn việc nghiên cứu.
Tài nguyên nước trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình đang được khai
thác, phát triển phục vụ các hoạt động kinh tế xã hội như sản xuất nông nghiệp,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, phát điện, sản xuất công nghiệp và sinh hoạt,
dịch vụ v.v... Trong những năm tới, các hoạt động kinh tế xã hội trên lưu vực sẽ
phát triển mạnh mẽ hơn nữa, điều đó đồng nghĩa với nhu cầu sử dụng nước tiếp
tục gia tăng và nếu việc sử dụng và quản lý nguồn nước kể cả lượng và chất
thiếu hợp lý thì lưu vực sông Hồng sẽ phải đương đầu với tình trạng thiếu nước
và ô nhiễm do nguồn thải từ các hoạt động kinh tế và nhiễm mặn từ biển.
Hiện nay, vùng đồng bằng sông Hồng nằm trong khu vực trọng
điểm phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh phía Bắc. Nông nghiệp vùng ĐBSH
có đóng góp trong phát triển kinh tế của vùng, đặc biệt là việc cung cấp lương
thực, thực phẩm cho thủ đô Hà Nội, các thành phố, khu công nghiệp và xuất
khẩu. Tuy nhiên, xét về khía cạnh tài nguyên thì sản xuất nông nghiệp cần tới
trên 80% tổng lượng nước nước cần, trong khi do phân phối không đều của dòng
chảy trong năm và các biến động bất thường của thời tiết, lượng mưa mùa kiệt
có xu thế giảm thấp, lượng nước bổ xung từ các hồ chứa thượng nguồn chưa bù
đắp sự thiếu hụt do nhu cầu sử dụng nước ngày càng cao cả về chất lượng và số
2
lượng, thì vấn đề cạn kiệt và nhiễm mặn trong mùa khô đang đe dọa lớn tới sản
xuất nông nghiệp cũng như các nhu cầu sử dụng nước khác ở vùng hạ lưu sông,
đặc biệt là nhu cầu nước đồng thời trong thời kỳ tưới ải vụ đông xuân của các
tỉnh đồng bằng sông Hồng - Thái Bình.
Từ năm 2003 trở lại đây, mực nước sông Hồng trong tháng I và tháng II,
đoạn hạ lưu xuống rất thấp. Năm 2003 là 2,34m; năm 2004 là 1,86m; năm 2005
là 1,58m và 7giờ sáng 4/2/2006 tại Hà Nội chỉ còn 1,46 m; tại Phả Lại là 0,31 m.
Đây là những con số thấp kỷ lục trong 100 năm qua gây khó khăn không nhỏ
cho việc lấy nước tưới cũng như các hoạt động kinh tế xã hội và môi trường
vùng hạ lưu hệ thống sông.
Nước đến từ thượng nguồn thấp, nhu cầu nước ở vùng đồng bằng cao, tổ
hợp với thủy triều có độ lớn tới 4 m là ngyên nhân của hiện tượng mặn lấn sâu
vào vùng cửa sông ven biển.
Nước thấp khiến cho việc lấy nước vào các hệ thống công trình thủy lợi
rất khó khăn. Nhiều trạm bơm giỏ bị treo hoặc không đủ cột nước để bơm như
trạm bơm Phù Sa, Văn Giang, Văn Lâm, La Khê..., lưu lượng nước lấy qua các
cống bị giảm một nửa so với thiết kế. Các cống láy nước không đủ đầu nước
chênh lệch cho tự chảy….
Theo báo cáo của Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và PTNT thì độ mặn
1‰ lên đến cống Rộc trên sông Ninh Cơ cách cửa biển 40 km trong đợt triều từ
11-19/1/2006. Trong 2 vụ đông xuân 2003-2004 và 2004-2005, độ mặn 1‰
cũng lên tới cống Múc 1/cống Múc 2 cách cửa biển khoảng 38 km.
Nguồn nước bị nhiễm mặn tác động xấu đến các hoạt động kinh tế xã hội
của tỉnh. đồng bằng ven biển. Mặn làm giảm năng suất cây trồng, ảnh hưởng đến
chất lượng nước sinh hoạt làm nảy sinh những vấn đề về y tế, xã hội…và những
hiểm họa về môi trường. Nước bị mặn cũng gây không ít khó khăn cho các
ngành công nghiệp và dịch vụ.
3
Hơn nữa, theo dự báo của các nhà chuyên môn thì trong 100 năm tới, mực
nước biển sẽ dâng cao thêm khoảng 60 - 70 cm nữa. Khi đó mặn sẽ lấn vào đất
liền sâu hơn và vấn đề sẽ càng trở lên nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, mục tiêu nghiên cứu là đánh giá thực trạng diễn biến
mực nước và tình hình xâm nhập mặn trong các tháng mùa kiệt với các tổ hợp
lưu lượng đến thượng lưu, tình hình lấy nước đoạn hạ lưu và dao động thủy triều
biển làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phục vụ phát triển bền vững cho
vùng đồng bằng sông Hồng - Thái Bình.
Nội dung nghiên cứu gồm các phần như sau:
1. Tổng quan về lưu vực sông Hồng - Thái Bình
2. Ứng dụng mô hình mike11 nghiên cứu, tính toán dòng chảy mùa cạn và
diễn biến xâm nhập mặn đồng bằng sông hồng-thái bình có xét tới ảnh
hưởng của hồ hòa bình, hồ thác bà
3. Các phương án tính toán
4. Phần kết luận và kiến nghị
- 3 -
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ LƯU VỰC SÔNG HỒNG – SÔNG THÁI BÌNH
I. Đặc điểm địa lý tự nhiên.
I.1. Vị trí địa lý.
Hệ thống sông Hồng - Thái Bình là hệ thống sông lớn nhất miền Bắc
nước ta, so với cả nước, chỉ đứng sau sông Mê Công. Đây là một trong số ít hệ
thống sông quốc tế của nước ta. Sông Hồng phần ngoài nước có 5 phụ lưu lớn
đều bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, gồm các sông: Lý Tiên, Đăng
Điều, Nguyên, Bàn Long và sông Phổ Mai. Năm nhánh sông này sau khi chảy
vào nước ta hợp thành 3 nhánh sông lớn là: sông Đà, sông Lô và sông Thao. Ba
nhánh sông này lại gặp nhau tại Việt Trì và được gọi là sông Hồng. Sông Hồng,
khi chảy vào vùng đồng bằng châu thổ, ngoài dòng chính lại tiếp tục phân thành
nhiều nhánh sông ở cả hai bên bờ sông.
Hiện nay, bên bờ tả còn ba nhánh sông gồm: sông Đuống, sông Luộc và
sông Trà Lý; bên bờ hữu còn hai nhánh sông là sông Đào Nam Định và sông
Ninh Cơ. Sông Đáy, trước đây là phân lưu của sông Hồng ở bên bờ hữu nhưng
hiện nay chỉ liên hệ với sông Hồng trong trường hợp phân lũ ở cửa Đáy. Ở bên
bờ tả, trước đây còn có các sông khác như: sông Phan, Cà Lồ, Thiếp, Đình Đào
và Cửu An. Tuy nhiên, do các tác động của con người, các sông này không còn
liên hệ trực tiếp với sông Hồng nữa. Cũng tương tự như vậy, bên bờ hữu còn có
các sông Nhuệ, Đáy, Tô Lịch, Lấp, Châu Giang và sông Sò không còn liên hệ
trực tiếp với sông Hông nữa.
Lưu vực sông Hồng nằm ở phía Bắc nước ta được giới hạn từ 200 đến
250
30’ vĩ độ Bắc, từ 1000 đến 1070
10’ kinh Đông. Phía Bắc giáp lưu vực sông
Trường Giang và lưu vực sông Châu Giang (Trung Quốc), phía nam giáp lưu
vực sông Mã, phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía tây giáp lưu vực sông Mêkông .
Toàn bộ diện tích lưu vực khoảng169.000 km2
trong đó diện tích thuộc
Trung Quốc là 81.240 km2
, diện tích thuộc Lào là 1.100 km2
, diện tích thuộc
Việt Nam là 86.660 km2
. Dòng chính sông Hồng có chiều dài là 1.140 km, trong
đó có 640 km chảy trên đất Trung Quốc, 500 km chảy trên địa phận Việt Nam.
- 4 -
Lưu vực sông Hồng-Thái Bình liên quan tới 26 tỉnh, thành phố, có tổng
diện tích tự nhiên khoảng 115750 km2
.
Vùng đồng bằng sông Hồng được giới hạn từ 200 đến 210
30’ vĩ độ Bắc,
từ 1050
30’ đến 1070
30’ kinh Đông, gồm trọn vẹn lãnh thổ của 11 tỉnh và một
phần lãnh thổ của các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh.
Hình 1: Vị trí địa lý lưu vực sông Hồng lãnh thổ Việt Nam
I.2. Đặc điểm địa hình
Lưu vực sông Hồng có hướng dốc nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Địa hình phần lớn là đồi núi, chiếm khoảng 70% trong đó diện tích có độ cao
bình quân trên +1000 m chiếm khoảng 47%. Có thể chia lưu vực sông Hồng
thành ba miền địa hình như sau:
I.2.1- Miền Đông Bắc: là miền đồi núi thấp, phần lớn độ cao trung bình 600 –
700 m. Đỉnh Tây Côn Lĩnh 2418 m, là đỉnh cao nhất trong miền. Các dãy núi là
phần tiếp tục của dãy Hoa Nam, núi cao thường tập trung ở biên giới Việt Trung
và thấp dần ra biển theo hướng Đông Nam. Theo mặt cắt địa hình, từ khối núi
vòm sông Chảy tới Vịnh Hạ Long độ cao giảm đi rõ rệt. Đặc điểm của cấu trúc
- 5 -
Sơn văn là sự sắp xếp các khối núi theo dạng cánh cung bao lấy vòm đá kết tinh
sông Chảy, quay lưng về phía Đông, được quy tụ ở núi Tam Đảo và mở rộng
dang tỏa ra trên lãnh thổ Hoa Nam. Trong vùng có các cánh cung sông Gâm,
Ngân Sơn, Đông Triều... Giữa các dãy núi là những thung lũng theo dọc các con
sông cùng hướng ( sông Lô, sông Chảy, sông Gâm) và nhiều nơi là những cánh
đồng bắng phẳng như Bắc Quang, Ỷ La... Nhìn chung địa hình vùng Đông Bắc
là nơi dễ bố trí sản xuất, nhờ một vùng trung du trải rộng với các sườn núi ít
dốc.
I.2.2- Miền Tây Bắc: So với miền Đông Bắc địa hình Tây Bắc có những nét
khác biệt hơn, do hoạt động tân kiến tạo làm cho địa hình nâng cao và bị chia cắt
mạnh mẽ. Từ Đông sang Tây trước hết gặp dãy Hoàng Liên Sơn dài 180 km,
được mệnh danh là mái nhà của Việt Nam với đỉnh Fanxipan cao 3143 m, Tà
Phình cao 3096 m, Pu Luông cao 2985 m, Sà Phình cao 2878 m. Giữa các dãy
núi có bồn địa nổi tiếng như Than Uyên, Nghĩa Lộ, Quang Huy... Tốc độ nâng
lên khá mạnh, cộng với quá trình xâm thực bào mòn các đá cứng (mắcma, biến
chất) đã tạo cho địa hình những nét độc đáo. Đường phân thủy có dạng răng cưa,
nhọn, độ dốc đạt tới 450
. Vì vậy rất khó đi lại và đặc biệt ảnh hưởng đến chế độ
dòng chảy. Cao nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ tới Nho Quan rồi kéo dài
ra sát biển tới 400 km rộng 25 km, bao gồm những bề mặt khá bằng phẳng cao
trên 1000 m (cao nguyên Sơn La và Mộc Châu) đã góp phần tạo cho địa hình
Tây Bắc thêm phức tạp và đa dạng.
I.2.3- Đồng bằng Bắc Bộ: Là vùng tam giác châu thổ rộng lớn với diện tích
khoảng 21000 km2
(nằm kẹp giữa hai miền núi Tây Bắc và Đông Bắc). Đồng
bằng Bắc Bộ có địa hình khá bằng phẳng, độ dốc nhỏ nhưng không đều, được
bồi đắp phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Đồng thời là kết quả
của quá trình hoạt động kiến tạo với quá trình biển lùi, để lại đồng bằng phì
nhiêu với các thành tạo phù sa. Địa hình nghiêng về biển theo hướng Tây Bắc –
Đông Nam. Mạng lưới sông ở đồng bằng bao gồm các chi lưu, phân lưu của
sông Hồng và sông Thái Bình đã phân chia đồng bằng thành những ô trũng và
sau khi có đê bao bọc thì hầu như các ô này không được bồi đắp để san bằng sự
chênh lệch về độ cao giữa các nơi nữa. Phù sa được tải ra biển và bồi đắp bờ
biển tạo điều kiện cho đồng bằng lấn ra vịnh Bắc Bộ. Đồng bằng lấn ra đến đâu
thì công việc quai đê lấn biển, mở rộng đất canh tác được xúc tiến và bên cạnh
các ô thiên nhiên tạo hình thành các ô nhân tạo
- 6 -
I.3. Đặc điểm địa chất, đất đai thổ nhưỡng và thảm phủ.
I.3.1- Đặc điểm địa chất.
Có thể chia địa chất lưu vực sông Hồng thành ba miền như sau:
Về phía Tây sông Thao, các dãy núi cao có hướng Tây Bắc - Đông Nam
mà độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, sườn rất dốc, nhiều khe rất
sâu được cấu tạo bởi đá kết tinh cổ gơnai, hoa cương, riôlit, pocfirit xen kẽ có
những bề mặt bằng phẳng, các bồn địa Than Uyên, Nghĩa Lộ, Quang Huy, các
cao nguyên đá vôi, nối tiếp nhau như Xa Phìn, Xin Chải, Sơn La, Mộc Châu.
Nham thạch ở đây đã bị phong hóa, bóc mòn dữ dội, hiện tượng đất lở, đá trượt
xảy ra rất mạnh.
Phía Đông sông Thao là khối vòm sông Chảy, các cánh cung, nhiều nơi là
những vùng đá vôi dốc đứng. Có thể nói phần phía đông của lưu vực này phổ
biến là đá vôi, nhiều hang động, sông suối ngầm, có những khối núi sót riêng
biệt. Khối núi vòm thượng nguồn sông Chảy có đỉnh Tây Côn Lĩnh với độ cao
2419 m, là một khối granit lớn và cổ nhất nước ta, nhiều nơi có sườn rất dốc.
Vùng đồi ở hạ du các thung lũng sông, có những cánh đồng ruộng, có chỗ
là thung lũng xâm thực bồi tụ. Tiếp giáp với đồng bằng tam giác châu là địa hình
thấp thoải, các bán bình nguyên cổ bằng phẳng, các thềm sông và bãi bồi.
I.3.2- Thổ nhưỡng.
Các loại đất chính của đồng bằng sông Hồng bao gồm [1]:
1. Đất cát, diện tích 16276 ha, chiếm 1,1% diện tích tự nhiên, đất nghèo
dinh dưỡng, chủ yếu trồng màu.
2. Đất mặn, diện tích 96608 ha, chiếm 6,5%, hiện trồng một vụ lúa, nếu
có thủy lợi hoặc cải tạo có thể trồng hai vụ lúa hay nuôi trồng thủy sản.
3. Đất phèn, diện tích 90105 ha, chiếm 6,1%, hiện trồng lúa nhưng năng
xuất thấp, đang dần dần được cải tạo bằng các biện pháp thủy lợi và nông
nghiệp.
4. Đất phù sa được bồi, diện tích 78737 ha, chiếm 5,3%, hầu hết là đất bãi
ven sông, trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày, hàng năm bị ngập, đặc biệt
vùng bãi thấp có thể bị ngập 125 – 160 ngày.
5. Đất phù sa không được bồi hàng năm, diện tích 979196 ha, chiếm
- 7 -
66,2%, đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất đồng bằng sông Hồng . Ở tất cảc
các tỉnh trong vùng, nhóm đất này đều có tỷ trọng lớn nhất về khả năng sản xuất
nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa.
6. Đất bạc màu và đất đỏ vàng, có diện tích 81469 ha, chiếm 5,5%, thuộc
loại đất nghèo dinh dưỡng, chua.
7. Đất đỏ vàng, diện tích 125904 ha, chiếm 8,5%, chur yếu trồng rừng hay
đang còn là đất trống đồi trọc, có thể cải tạo để trồng cây ăn quả hoặc cây lâu
năm.
Ngoài ra, còn một số loại đất khác chiếm tỷ trọng thấp như đất mùn vàng
đỏ trên núi, đất xói mòn trơ sỏi đá.
I.3.3- Thảm phủ.
Rừng trên lưu vực sông Hồng biến đổi theo độ cao, điều kiện thổ nhưỡng,
điều kiện khí hậu và thuỷ văn. Do đó rừng phân bố theo độ cao và được chia ra 2
loại chính, từ 700m trở lên và dưới 700m. Từ 700m trở lên, rừng chủ yếu là
rừng kín hỗn hợp lá cây rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới và rừng kín thường xanh
mưa ẩm nhiệt đới. Ở độ cao dưới 700m, rừng chủ yếu là rừng kín thường xanh
mưa ẩm nhiệt đới. Ngoài ra, còn có các loại rừng trồng, các loại cây bụi trên các
đồi trọc.
Do khai thác, đốt phá rừng bừa bãi nên tỷ lệ rừng che phủ trong lưu vực
còn tương đối thấp. Theo số liệu điều tra lâm nghiệp cho thấy rừng trên lưu vực
sông Hồng bị tàn phá nặng nề, trước đây từ những năm đầu của thế kỷ lưu vực
sông Hồng có khoảng gần 60% diện tích rừng, gồm các loại cây đa dạng phong
phú của các kiểu rừng mưa nhiệt đới, rừng á nhiệt đới, rừng thường xanh lá
rộng. Nhưng cho đến nay lưu vực chỉ còn xấp xỉ 20%, nhiều vùng có vị trí
phòng hộ đầu nguồn như Đông Bắc, Tây Bắc rừng chẳng còn bao nhiêu, thậm
chí, có nơi như Tây Bắc tỷ lệ rừng chỉ còn xấp xỉ 9%. Như vậy, độ che phủ
rừng trên lưu vực chưa đạt mức độ che phủ tương đối ổn định cho môi trường
sinh thái (20%-25%).
Trong những năm gần đây, nhờ có phong trào trồng và bảo vệ rừng nên tỷ
lệ rừng che phủ ở các tỉnh trong lưu vực sông Hồng-Thái Bình đã tăng lên đáng
kể. Tính đến năm 1999, tỷ lệ rừng che phủ ở vùng trung du và miền núi đã tăng
lên 35%.
- 8 -
I.4. Mạng lưới sông ngòi.
Sông Hồng bắt nguồn từ hồ Đại Lý ở độ cao gần 2000 m trên đỉnh Ngụy
Sơn (Vân Nam – Trung Quốc) chảy theo hướng tây bắc – đông nam vào địa
phận Việt Nam tại vùng biên giới gần thị xã Lào Cai. Phần thượng nguồn sông
có tên là sông Nguyên, phần trung du là sông Thao, phần đồng bằng là sông
Hồng. Đến Việt Trì hai nhánh lớn sông Đà và sông Lô gia nhập, và từ đây, sông
Hồng đi vào tam giác châu rồi ra biển. Sau khi chảy qua Sơn Tây sông Hồng lần
lượt có 6 phân lưu: Sông Đáy, sông Đuống, sông Luộc, sông Trà Lý, sông Đào
và sông Ninh Cơ. Sông Đuống và sông Luộc nối liền sông Thái Bình với sông
Hồng.
Là sản phẩm chịu sự tương tác của điều kiện tự nhiên, địa hình, khí hậu,
thổ nhưỡng và mặt đệm mà mạng lưới sông ngòi phát triển không đồng đều giữa
các vùng. Mật độ sông ngòi trên lưu vực thay đổi trong phạm vi từ 0,4 km/km2
đến 2 km/km2
. Sự phân bố mật độ sông ngòi khá phức tạp nhưng nhìn chung ở
vùng núi cao và trung bình, mưa nhiều như ở Hoàng Liên Sơn – Tây Côn Lĩnh,
mật độ rất dày từ 1,5 đến 2 km/km2
. Ở vùng núi thấp và núi trung bình, mưa
nhiều như vùng Ngân Sơn, sông Gâm, Chàm Chu, dãy con voi mật độ đạt 1 đến
1,5 km/km2
. Ở vùng thung lũng hoặc cao nguyên, mưa tương đối ít hoặc trung
bình thì mật độ đạt từ 0,5 đến 1 km/km2
. Thượng lưu các sông thường rất dốc,
độ dốc lòng sông thường lớn hơn 0,2%, xuống trung lưu vẫn còn nhiều thác
ghềnh, xen kẽ giữa những đoạn lòng sông mở rộng nước chảy chậm là những
đoạn thu hẹp, nước chảy nhanh. Về hạ du, các sông nhánh nhập vào sông chính,
lòng sông mở rộng, độ dốc nhỏ, hai bên bờ sông có đê khống chế, tốc độ dòng
nước giảm, lòng sông uốn khúc quanh co và thay đổi phức tạp, bên lở bên bồi
hoặc giữa dòng có những bãi cát nổi.
Dòng chính sông Hồng, suốt chiều dài từ nguồn đến cửa sông luôn luôn
giữ hướng tây bắc – đông nam. Lưu vực phát triển không cân xứng, phần lưu
vực phía thượng lưu thuộc địa phận Trung Quốc phát triển lệch về bên trái và
phần lưu vực trung lưu lại phát triển lệch về bên phía phải.
Sông Thao (dòng chính của sông Hồng) bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn
cao trên 2000 m thuộc tỉnh Vân Nam – Trung Quốc (thuộc địa phận Trung
Quốc, sông Thao có tên gọi là Nguyên Giang), có diện tích lưu vực 51.800km2
với tổng chiều dài 843km. Phần thuộc lãnh thổ Việt Nam có diện tích
- 9 -
12.000km2
, chiều dài tới Việt Trì là 332km. Lưu vực sông Thao nằm kẹp giữa
hai dãy núi cao là Hoàng Liên Sơn bên hữu ngạn và Con voi bên tả ngạn, có
hình lông chim dài và hẹp, trong đó phần Việt Nam lưu vực có dạng lệch hẳn về
hữu ngạn và rất hẹp bên tả ngạn.
Những nhánh sông lớn ở phần thượng lưu có sông Mã Thất, sông Duyên
Trấp, sông Để và sông Nam Khê. Ở phần trung lưu có sông ngòi Bo (587 km2
),
Ngòi Nhù (1580 km2
), Ngòi Hút (632 km2
), Ngòi Thia (1570 km2
), sông Bứa
(1370 km2
), Ngòi Phát (512 km2
) và Ngòi Lao (680 km2
).
Nhánh sông lớn nhất của sông Hồng là sông Đà, chi lưu bên phải cũng bắt
nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn (phần thượng nguồn bên Trung Quốc có tên gọi là
sông Ba Tiên rồi đổi thành sông Lý Tiên), chảy vào Việt Nam theo hướng Tây
Bắc – Đông Nam và song song với sông Thao, địa hình lưu vực có nhiều núi và
cao nguyên với độ cao lớn và bị chia cắt mạnh theo chiều thẳng đứng. Sông Đà
có diện tích lưu vực là 52.900km2
với chiều dài sông 1010km. Phần trên lãnh
thổ Việt Nam có diện tích 26.800km2
và chiều dài 570km . Vào địa phận Việt
Nam sông Đà có những nhánh lớn gia nhập là Nậm Pô (2280 km2
), Nậm Na
(6860 km2
), Nậm Mức (2930 km2
), Nậm Mu (3400 km2
), Nậm Sập (1110 km2
),
Nậm Bú (1410 km2
). Sông suối trong lưu vực sông Đà thuộc loại sông trẻ, thung
lũng sông hẹp, lòng sông đang bị đào mạnh, nhiều thác ghềnh. Độ cao trung
bình lưu vực là 1130 m, riêng phần ở lãnh thổ Việt Nam có độ cao trung bình
lưu vực là 965 m.
Nhánh lớn thứ hai của sông Hồng là sông Lô, sông Lô bắt nguồn từ cao
nguyên Vân Nam (Trung Quốc) và chảy vào địa phận nước ta tại Thanh Thủy.
Đến Hà Giang sông Miện gia nhập ở bờ trái, đến Vĩnh Tuy nhánh sông Con gia
nhập ở bờ phải và đến Hàm Yên sông Gâm gia nhập ở bờ trái. Tại Đoan Hùng,
sông Lô lại có thêm một nhánh lớn gia nhập là sông Chảy. Trước khi gia nhập
vào sông Hồng tại Việt Trì, sông Lô còn nhận một nhánh lớn nữa là sông Phó
Đáy. Thượng nguồn sông Lô cũng chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, tới
thị xã Hà Giang thì chuyển hướng Bắc Nam và nhập vào sông Hồng đoạn gần
Việt Trì. Diện tích lưu vực là 39.000km2
, chiều dài 470km, phần diện tích thuộc
lãnh thổ Việt Nam là 26.000km2
với chiều dài 275km.
Sông Đáy, trước kia là phân lưu chính của sông Hồng có thể phân khoảng
20% lượng lũ sông Hồng, nhưng cửa sông Đáy dần dần được bồi cao và từ năm
- 10 -
1937 người Pháp đã xây dựng một đập ngăn hoàn toàn sông Đáy với sông Hồng,
biến Sông Đáy thành một sông tiêu nước nội địa và chỉ phân lũ sông Hồng vào
sông Đáy khi lũ sông Hồng quá cao, với lưu lượng tháo thiết kế 5000 m3
/s. Các
sông nhánh lớn của sông Đáy là : Sông Tích (1331 km2
), sông Bôi (1549 km2
),
sông Nhuệ.
Sông Đuống (dài 64 km), sông Luộc (dài 72 km) là các sông chuyển nước
từ sông Hồng sang sông Thái Bình; sông Trà Lý (dài 64 km), phân lưu tả ngạn
sông Hồng đổ ra biển, sông Đào Nam Định (dài 31,5 km) đưa nước sông Hồng
sang sông Đáy, sông Ninh Cơ (dài 51,8 km) chảy ra biển.
Một số đặc trưng hình thái lưu vực sông của các nhánh sông trên 1000
km2 trên lưu vực sông Hồng được trình bày trong bảng 1 – 2: [2]
Bảng 1-2: Đặc trưng hình thái lưu vực sông của các nhánh sông trên 1000km2
trên lưu vực sông Hồng
Sông Chiều dài
(km)
Diện tích
(km2)
Độ cao
bình
Độ dốc
bình
Độ rộng
bình
Mật độ
lưới
Ngòi Nhù 73 1550 942 39,2 27,6 1,2
Ngòi Thia 96 1570 907 42,1 23,1 0,99
Sông Bứa 100 1370 302 22,2 17,9 1,03
Nậm Pô 73,5 2280 24,9
Nậm Na 235 6860 1276 31,2 28,1
Nậm Mức 265 2930 934 34,9 22,6 1,16
Nậm Mu 165 3400 1085 37,2 26,8 0,48
Nậm Sập 83 1110 839 34,5 16,1
Nậm Bú 81,5 1410
Miện 124 1935 976 24,5 21,5
Con 76 1370 430 23,6 18,6 1,4
Gâm 297 17140 877 22,7 16,3
Chảy 319 6500 858 24,6 26 1,09
Phó Đáy 170 1610 216 14,4 1,1
II. Đặc điểm khí hậu.
Khí hậu trong hệ thống sông Hồng-Thái Bình ở phần lãnh thổ Việt Nam
là khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh, khô, ít mưa và mùa hè nóng ẩm
mưa nhiều, chịu tác động của cơ chế gió mùa đông nam Á với hai mùa gió: gió
mùa mùa Đông và gió mùa mùa Hạ, nhưng do chịu tác động của địa hình nên
các yếu tố khí hậu biến đổi mạnh mẽ theo không gian và thời gian.Trong phần
này, chỉ nêu một số đặc trưng cơ bản của khí hậu trên toàn lưu vực: