Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghĩa tình thái của phó từ đứng sau trong ngữ đoạn vị từ tiếng việt và cách chuyển dịch chúng sang tiếng anh
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------------
CHÂU VĂN THỦY
NGHĨA TÌNH THÁI CỦA PHÓ TỪ ĐỨNG SAU
TRONG NGỮ ĐOẠN VỊ TỪ TIẾNG VIỆT
VÀ CÁCH CHUYỂN DỊCH SANG TIẾNG ANH
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8229020
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Đà Nẵng - Năm 2018
2
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Trọng Ngoãn
Phản biện 1: ………………………………………………..
Phản biện 2: ………………………………………………..
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ ngôn ngữ học họp tại trường Đại học sư
phạm- Đại học Đà Nẵng vào ngày ….. tháng ….. năm 2018
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Trường Đại học Sư phạm- ĐHĐN
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm- ĐHĐN
3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phó từ là một từ loại nằm trong hệ thống phụ từ, có tần số xuất
hiện khá cao trong tiếng Việt. Chúng có khả năng hoạt động rất linh
hoạt, đồng thời mối quan hệ giữa các phó từ với vị từ trong tiếng Việt
cũng khá phong phú và thú vị. Trong “Hư từ trong tiếng Việt hiện đại”
(1988), Nguyễn Anh Quế đã khái quát: “Phó từ là một từ loại hết sức
phức tạp cả về ý nghĩa lẫn về chức năng” [45, tr. 65].
Tình thái và các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ đã
được nhiều nhà ngôn ngữ học nghiên cứu khai thác. Đến nay đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu về tiểu từ tình thái, động từ tình thái, trợ
từ tình thái, quán ngữ tình thái. Tuy nhiên, nghiên cứu tính tình thái
của phó từ, đặc biệt các phó từ đứng sau là một vấn đề chưa được
nghiên cứu đầy đủ và chuyên sâu. Phần lớn khi nghiên cứu về phó từ,
các tác giả trước đây chỉ tập trung nghiên cứu đến các phạm trù ngữ
pháp của phó từ về vị trí, chức năng, khả năng kết hợp cũng như phân
chia phó từ thành các nhóm nghĩa khác nhau.
Với vai trò là một cán bộ đang công tác trong ngành giáo dục, liên
quan đến công tác chỉ đạo dạy và học ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng
Anh, chúng tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu này sẽ mang lại nhiều
hữu ích cho bản thân trong quá trình công tác. Thực tế, phó từ cũng đã
được đưa vào chương trình Ngữ văn hiện hành, nhưng chỉ dừng lại ở
những phó từ thường gặp và nghĩa của phó từ cũng chỉ dừng lại ở đặc
trưng nghĩa miêu tả. Song song với đó, khi giảng dạy ngữ pháp tiếng
Anh ở bậc trung học, phó từ (adverbs) cũng là vấn đề gây nhiều khó
khăn cho không chỉ học sinh mà cả giáo viên.
Với những lý do trên, chúng tôi hi vọng rằng luận văn "Nghĩa
tình thái của phó từ đứng sau trong ngữ đoạn vị từ tiếng Việt và
4
cách chuyển dịch chúng sang tiếng Anh" sẽ góp thêm một góc nhìn
về ý nghĩa tình thái của phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt, từ đó
góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy Việt ngữ và Anh ngữ trong
trường phổ thông hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về phó từ và phó từ đứng sau
trong ngữ đoạn vị từ tiếng Việt
Nghiên cứu về phó từ đặc biệt là phó từ đứng sau trong NĐVT
tiếng Việt đã được nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm:
Trong Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt
Nam (1983), các tác giả đã xếp phụ từ thuộc hư từ tiếng Việt: "Phụ từ
là từ biểu thị các nghĩa ngữ pháp về thời gian, về thể trạng, về mức
độ..... Nó không thể đảm nhiệm phần đề, phần thuyết trong nòng cốt.
Vai trò mà nó có thể đảm nhiệm là làm yếu tố cấu tạo của ngữ, nhưng
cũng không làm chính tố, mà chỉ làm phụ tố..." [56, tr.70-71].
Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung (1991) đã chia phó từ thành
8 nhóm, nhưng chưa phân chia theo vị trí của phó từ trong NĐVT. Sau
này, Diệp Quang Ban trong (2008) đã phân chia một cách chi tiết các
nhóm phó từ. Đinh Văn Đức (2001) đã gọi chung những từ bổ nghĩa
cho động từ, tính từ là từ phụ. [19, tr. 185]. Bùi Minh Toán và Nguyễn
Thị Lương đã xác nhận nhóm phụ từ đứng sau gồm các nhóm phụ từ:
chỉ ý mệnh lệnh, cầu khiến; chỉ ý hoàn tất; chỉ kết quả; chỉ tự lực hay
tương hỗ; chỉ ý cộng tác; chỉ mức độ; chỉ sự tiếp diễn trong thời gian,
chỉ tính cấp thiết, chỉ tính chất không cấp thiết; chỉ hướng [50, tr. 84-
90]. Nguyễn Thị Ly Kha (2008) đã dùng khái niệm phụ từ dùng cho tất
cả các loại từ phụ nghĩa cho danh từ, động từ và tính từ. Theo đó, tác
giả đã chia các phụ từ phụ nghĩa cho động từ và tính từ thành 7 nhóm
[30, tr. 87-90]; chưa phân chia theo vị trí của phó từ trong NĐVT.
5
Trước đó, Đỗ Thị Kim Liên (1999), việc phân loại phó từ dựa vào vị
trí của phó từ trong ngữ đoạn vị từ đã được chú ý. Tác giả đã chia phó
từ đứng sau động từ- tính từ được chia thành 6 nhóm [32, tr.62-65]
2.2. Những công trình nghiên cứu về nghĩa tình thái
Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về tình
thái. Nguyễn Văn Hiệp cho rằng tình thái “được biểu thị xuyên thấm
qua nhiều cấp độ ngôn ngữ khác nhau, từ ngữ điệu đến trật tự từ, từ các
phương tiện từ vựng đến các phương tiện ngữ pháp, từ những thành tố
thuộc bậc câu đến các thành tố thuộc bậc trên câu, bậc dưới câu…[28,
tr.1]. Ở trong nước, tình thái được nghiên cứu bởi các tác giả tiêu biểu
như Cao Xuân Hạo, Đỗ Thị Kim Liên, Nguyễn Văn Hiệp, Võ Đại
Quang, Hoàng Phê, Nguyễn Thiện Giáp, Bùi Minh Toán…. Các nhà
ngôn ngữ học nổi tiếng nước ngoài cũng nghiên cứu về tình thái như: J.
Lyons, M.A. Halliday F.R. Palmer, Perkins M.R….
2.3. Những công trình nghiên cứu về nghĩa tình thái của phó
từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt
Cho đến nay, đã có một số nhà ngôn ngữ học đề cập đến chức
năng biểu thị tình thái của phó từ. Đinh Văn Đức (2001) đã viết "Một
đặc điểm rất quan trọng của phần lớn từ phụ của động từ là ở chỗ các
từ này: …b) còn có khả năng diễn đạt ý nghĩa tình thái- thể hiện mục
đích phát ngôn mối quan hệ giữa người nói và thực tại” [19, tr.46].
Nguyễn Thị Ly Kha trong (2008) cũng xác nhận rằng "phụ từ
không thực hiện chức năng gọi tên (định danh), mà chỉ làm dấu hiệu cho
một loại ý nghĩa nào đó mà thôi".
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài là nghĩa tình thái của
các phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt.
6
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu tình thái nhận thức và tình thái
đánh giá của các phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt.
Nguồn ngữ liệu để phân tích được rút ra từ các tác phẩm văn
chương của các tác giả lớn của văn học Việt Nam, từ điển tiếng Việt,
từ điển tiếng Anh, các tác phẩm tiếng Việt đã được dịch sang tiếng
Anh và một số trường hợp khẩu ngữ mà tác giả thu thập được.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Chỉ ra được nghĩa tình thái (hoặc cơ cấu nghĩa tình thái) của
từng phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt.
- Đề xuất cách chuyển dịch những phó từ đứng sau NĐVT này
sang tiếng Anh.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập danh sách ( nhóm) các phó từ đứng sau trong tiếng Việt.
- Phân tích, miêu tả các nét nghĩa tình thái của từng phó từ đứng sau;
- Tìm ra từ đồng nghĩa của chúng trong tiếng Anh; đối với những
trường hợp có khoảng trống từ vựng, tìm cụm từ tương đương hoặc các
phương thức ngữ pháp để diễn đạt tương đương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp miêu tả, gồm:
+ Thủ pháp miêu tả bên trong bao gồm thủ pháp khảo sát, thủ
pháp thống kê, thủ pháp phân loại.
+ Thủ pháp miêu tả bên ngoài bao gồm thủ pháp phân tích ngôn
cảnh và các thủ pháp thử nghiệm để phân tích nghĩa tình thái.
Ngoài ra, phương pháp đối chiếu diễn dịch cũng được sử dụng để
tìm cách chuyển dịch tương đương trong tiếng Anh. Chúng tôi không
nhằm vào so sánh, đối chiếu phó từ trong tiếng Việt và tiếng Anh mà
7
tìm cách chuyển dịch trong trường hợp có từ tương đương và cả khi
không có từ tương đương trong tiếng Anh (khoảng trống từ vựng).
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận: luận văn sẽ góp phần nghiên cứu các nét nghĩa tình
thái đặc trưng của các phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt. Từ đó,
luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn vai trò, chức năng của phó từ
đứng sau trong NĐVT tiếng Việt với tư cách là một hư từ biểu đạt tình
thái, mở ra một hướng mới trong việc nghiên cứu nghĩa tình thái của
phó từ nói chung trong tiếng Việt cũng như tiếng Anh.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu sẽ bổ sung thêm một tư liệu cho
việc dạy và học Việt ngữ và Anh ngữ trong nhà trường và cả người
nước ngoài học tiếng Việt như một ngoại ngữ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương I. Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Chương II. Khảo sát nghĩa tình thái của các phó từ đứng sau
trong ngữ đoạn vị từ tiếng Việt.
Chương III. Cách chuyển dịch các phó từ đứng sau trong ngữ
đoạn vị từ tiếng Việt sang tiếng Anh
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình thái trong ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học
Khái niệm tình thái (modality, modalité) được hiểu không giống
nhau ở các khuynh hướng ngôn ngữ khác nhau. V.Z. Panfilov đã từng
nhận xét rằng "không có phạm trù nào mà bản chất ngôn ngữ học và
thành phần các ý nghĩa bộ phận lại gây ra nhiều ý kiến khác biệt và đối
lập nhau như phạm trù tình thái" [dẫn theo 52, tr.242].
8
Những gì chúng tôi trình bày trong luận văn này là tổng hợp các
quan niệm từ các nhà nghiên cứu đi trước:
Logic học quan tâm nhiều đến giá trị đúng sai còn gọi là tính
đúng/ sai của mệnh đề. Do vậy, tình thái logic luôn được giới hạn trong
tính xác thực của sự tình gồm tính tất yếu, tính khả năng và tính hiện
thực. Như vậy, tình thái (hay modus) trong logic học "có thể được xem
là tình thái khách quan chỉ nhằm vào một số kiểu quan hệ chung nhất
của phán đoán với hiện thực, xem đó như là một đặc trưng nội tại của
bản thân cấu trúc chủ - vị từ logic, hoàn toàn trừu tượng hóa khỏi
những nhân tố giao tiếp [36, tr.8].
Trong ngôn ngữ, tình thái cũng đã trở thành vấn đề được các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm từ rất lâu. Bất kỳ phát ngôn nào cũng
có sở chỉ rõ ràng về người nói, người nghe, nhằm mục đích giao tiếp
nào đó đối với nội dung mệnh đề xét trong quan hệ với đối tượng giao
tiếp cũng như các nhân tố khác trong hiện thực và hoàn cảnh giao tiếp.
Charles Bally đã đưa ra gợi ý về sự phân biệt hai thành phần trong
cấu trúc nghĩa của câu đó là dictum (ngôn liệu) và modus (tình thái).
Dictum thì gắn với chức năng kinh nghiệm (chức năng miêu tả) của
ngôn ngữ. Modus thì gắn với phương diện chủ quan của phát ngôn, với
tình cảm, ý chí, thái độ, đánh giá và nhận định của người nói đối với
nội dung mệnh đề xét trong chiều kích quan hệ với thực tế, quan hệ với
người đối thoại và quan hệ với hoàn cảnh giao tiếp [27, tr.87].
1.1.2. Phân loại các nghĩa tình thái
Có thể nói rằng từ cách quan niệm khác nhau của các nhà ngôn
ngữ học về khái niệm tình thái, chúng tôi xin được nêu ra những cách
phân loại theo các hướng khác nhau như sau:
- O. Jespersen đã phân tình thái thành hai nhóm lớn là: (1)nhóm có
chứa thành tố ý chí (cầu khiến, ép buộc, nghĩa vụ, khuyên bảo, khẩn cầu,
9
khích lệ, cho phép, hứa hẹn, mong mỏi, ước vọng, dự tính) và (2)nhóm
không chứa thành tố ý chí (xác thực, đòi hỏi cần phải có, xác nhận, giả
định có cơ sở, hồ nghi, khả năng, điều kiện, giả thiết, nhượng bộ).
- V. Wright (1951), đã phân chia tình thái thành bốn loại: a. Tình
thái hiện thực (the alethic modes); b. Tình thái nhận thức (the
epistemic modes); c. Tình thái trách nhiệm (the deontic modes); d.
Tình thái tồn tại (the existential modes). [dẫn theo 43, tr.128]
- Danh sách của Rescher về các loại tình thái rất đa dạng. "Bên
cạnh các loại tình thái hiện thực, nhận thức, trách nhiệm, ông đề cập
đến các loại tình thái biểu thời (temporal), tình thái vọng cảm
(boulomaic), tình thái đánh giá (evaluative), tình thái nguyên nhân
(causal) và tình thái điều kiện (conditional)". [dẫn theo 43, tr.129]
- Theo Palmer, tình thái nhận thức được chia thành hai lớp cơ bản:
đánh giá (judgement) và bằng chứng (evidence). Tình thái đánh giá
gồm tất cả các khái niệm nhận thức, tính khả năng và sự cần thiết. Tình
thái trách nhiệm thường có một thuộc tính quan trọng, đó là tính phi
thực hữu (non - factual). F. Palmer cũng đã đề xuất một loại tình thái
thứ ba là tình thái “dynamic”. [dẫn theo 43, tr.129-130]
- J. Lyons phân chia tình thái chủ quan thành hai tiểu loại là tình
thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo nghĩa (deontic
modality).[dẫn theo 52, tr.244]
Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng đã có những cách nhìn
khác nhau về các nghĩa tình thái trong ngôn ngữ:
- Theo Diệp Quang Ban, nghĩa tình thái (còn gọi là nghĩa liên
nhân) trong câu là kiểu nghĩa phản ánh thái độ của người sử dụng vào
trong câu và ông chia nghĩa tình thái thành hai kiểu là tình thái của
hành động nói và tình thái của câu. [5, tr.104]
10
- Nguyễn Văn Hiệp đã nêu ra một số đối lập chủ yếu của tình thái
trong ngôn ngữ, bao gồm sự đối lập giữa tình thái nhận thức và tình
thái đạo nghĩa, giữa tình thái nhận thức và tình thái căn bản, giữa tình
thái hướng tác thể và tình thái của người nói, giữa tình thái của mục
đích phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. [27, tr.103-128]
1.2. Các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ
Võ Đại Quang (2009) đã nêu ra 3 con đường chuyển tải tình thái
trong ngôn ngữ là từ vựng hóa (lexicalisation), ngữ pháp hóa
(grammaticalisation) và ngôn điệu hóa (prosodifcation) [44, tr.25].
Chúng tôi khái quát ba phương tiện biểu đạt tình thái như sau:
1.2.1. Phương tiện ngữ âm
Các phương tiện ngữ âm biểu thị nghĩa tình thái thực chất là
những hiện tượng ngôn điệu mà người nói sử dụng trong phát ngôn.
1.2.2. Các phương tiện từ vựng
Trong tiếng Việt, từ vựng là phương tiện có vai trò quan trọng
trong chức năng biểu đạt ý nghĩa tình thái của câu.
1.2.3. Phương tiện ngữ pháp
Trong các ngôn ngữ biến hình (như tiếng Anh), thì (tense), thức
(mood) và thể (aspect) có vai trò quan trọng trong việc biểu thị các ý
nghĩa tình thái. Đối với các ngôn ngữ đơn lập, ý nghĩa ngữ pháp phụ
thuộc vào trật tự từ và tình thái được biểu thị thông qua các phương
thức đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc câu.
1.3. Phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt và nghĩa tình thái
của chúng
1.3.1. Phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt
1.3.1.1. Khái niệm phó từ
Từ quan niệm của các tác giả về phó từ cũng như đặc trưng
của nó, chúng tôi tổng hợp các đặc điểm của phó từ như sau:
11
+ Về ý nghĩa: Phó từ có tính chất hư, chuyên biểu thị ý nghĩa ngữ
pháp tình thái cho vị từ về mức độ, thời gian, phạm vi, phương thức
góp phần cụ thể hóa nghĩa biểu hiện của vị từ trong câu.
+ Về quan hệ ngữ pháp: Phó từ giữ vai trò phụ trợ cho vị từ.
+ Về vị trí so với vị từ: Phó từ có 2 vị trí cơ bản: đứng trước và đứng
sau vị từ.
1.3.1.2. Phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt
Tổng hợp quan điểm của các tác giả Diệp Quang Ban, Đỗ Thị
Kim Liên, Đinh Văn Đức (2001), Bùi Minh Toán và Nguyễn Thị
Lương (2007) hay Nguyễn Thị Ly Kha (2008), chúng tôi xin chia phó
từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt thành các nhóm sau:
(1) Nhóm phó từ chỉ ý cầu khiến: đi, ngay, lên, thôi, với, đã, cho,
vào, nào
(2) Nhóm phó từ chỉ mức độ: lắm, quá, tuyệt, vô cùng, cực, hết ý
(3) Nhóm phó từ chỉ sự tiếp tục, lặp lại: lại, nữa, hoài, mãi, luôn
(4) Nhóm phó từ chỉ sự kết thúc, hoàn thành: xong, rồi, hết
(5) Nhóm phó từ chỉ kết quả: ra, được, mất, đi, phải
(6) Nhóm phó từ biểu thị phương hướng: ra, vào, lên, xuống, lại,
tới, về, sang
(7) Nhóm phó từ chỉ diễn biến của quá trình, đặc trưng: lên, ra, lại, đi
(8) Nhóm phó từ chỉ trạng thái, quá trình: ngay, liền, lập tức, tức
khắc, dần
(9) Nhóm phó từ chỉ cách thức hành động từ mình: lấy
(10) Nhóm phó từ chỉ sự nối kết, chung cùng, tác động qua lại:
nhau, cùng, với
(11) Nhóm phó từ chỉ sự sơ lược: qua, sơ, tạm
1.3.2. Nghĩa tình thái của phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Việt
12
Theo Hoàng Tuệ, các phương tiện biểu thị tính tình thái trong tiếng
Việt là "khá đa dạng và phong phú" [55, tr. 248].
Việc xác nhận tính tình thái của phó từ đã được Đinh Văn Đức
(1986) nêu lên: “các từ phụ của động từ và tính từ trong tiếng Việt đều
đồng thời tham gia diễn đạt tính tình thái” [18, tr.189].
Theo Nguyễn Văn Hiệp, tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân thể
hiện những dạng thức tồn tại của hành động, quá trình, trạng thái, tính
chất, quan hệ… . Đó là những đặc trưng như kéo dài/ không kéo dài, bắt
đầu/ kết thúc, điểm tính/ không điểm tính [28, tr.14].
1.4. Phần phụ sau trong NĐVT tiếng Anh
1.4.1. Phần phụ sau động từ trong NĐVT tiếng Anh
Tuy không cùng loại hình nhưng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh cùng
có một đặc điểm chung là “trật tự cú pháp thường là chủ ngữ - vị ngữ -
bổ ngữ” [58, tr.67-68]. Chính vì đặc điểm này mà phần lớn các cấu
trúc câu của hai ngôn ngữ có tính tương đồng khá cao.
Đứng sau động từ có thể là danh từ, cụm từ hoặc một kết cấu chủ
- vị có chức năng như danh từ; là động từ hoặc cụm động từ; là tính từ
hoặc cụm tính từ; là đại từ; là giới từ; là phó từ hay cụm từ có chức
năng như phó từ
1.4.2. Phó từ đứng sau trong NĐVT tiếng Anh
Phó từ đứng sau động từ trong tiếng Anh gồm nhiều loại: phó từ
cách thức; phó từ thời gian; phó từ tần suất; phó từ mức độ;
1.4.3. Từ có chức năng như phó từ trong NĐVT tiếng Anh
Từ có chức năng như phó từ trong NĐVT tiếng Anh như: Tiểu
phó từ (Adverb particles); tiểu từ trong động từ nhiều từ (Particles in
phrasal verbs)
1.4.4. Cụm giới từ có chức năng như một phó từ.
13
CHƯƠNG 2
NGHĨA TÌNH THÁI CỦA PHÓ TỪ ĐỨNG SAU
TRONG NGỮ ĐOẠN VỊ TỪ TIẾNG VIỆT
2.1. Nghĩa tình thái của các nhóm phó từ đứng sau trong ngữ
đoạn vị từ tiếng Việt
Như đã đề cập trên, phó từ đứng sau trong NĐVT là nhóm các từ
có sự đa dạng về ngữ nghĩa, phức tạp về chức năng. Việc phân chia
phó từ thành các nhóm đôi khi có những trở ngại trong cách thức tiếp
cận cũng như kiến giải, phân tích vì rằng một phó từ lại tham gia biểu
hiện ở nhiều nhóm nghĩa khác nhau. Ví dụ phó từ ra đã tham gia biểu
thị nhiều nét nghĩa tình thái khác nhau trong các phát ngôn sau đây:
(1) Dạo này trông cô béo ra, đẹp ra, hồng hào ra.
(2) Nhà khoa học trẻ tuổi này đã phát hiện ra một định lý mới.
[41, tr.219]
(3) Nam từ trong nhà chạy ra.
Ở ví dụ (1), các nét nghĩa tình thái của các từ ra là: người nói đã
xác nhận quá trình chuyển biến của các sự tình “đẹp”, “hồng hào” và
“béo” theo hướng tăng và xác nhận các sự tình đã hiện hữu lúc phát
ngôn; đồng thời, người nói cũng đã thể hiện tình thái đánh giá về kết
quả chuyển biến của sự tình theo hướng tích cực.
Ý nghĩa tình thái của ra ở ví dụ (2) là người nói xác nhận đã có
một sự chuyển biến của sự tình "phát hiện" từ một phạm trù chưa ai
biết, đến hiện thực rõ ràng được mọi người công nhận. Đồng thời,
người nói đã khẳng định tính thực hữu của sự tình (định lý mới) đã
hiện diện, qua đó thể hiện sự thừa nhận kết quả của quá trình hành
động mà vị từ đứng trước ra thể hiện.
Trong ví dụ (3), ra thể hiện nhận thức của người nói về hướng di
chuyển của hoạt động chạy trong không gian. Ý nghĩa tình thái của ra
14
trong ví dụ này là: người nói đã xác nhận hành động “chạy” của Nam
là đang diễn ra theo hướng từ trong ra khỏi ngôi nhà, đồng thời người
nói cũng khẳng định tính thực hữu của hành vi đứng trước ra là hành
động sắp hoàn thành với hiện thực sự tình là sự có mặt của Nam.
2.1.1. Nghĩa tình thái của nhóm phó từ chỉ ý cầu khiến
Trong nhóm này, chúng tôi nghiên cứu các phó từ như: đi, ngay,
lên, thôi, với, đã, cho, vào, nào.
Với số lượng lớn, các phó từ cầu khiến đã tham gia biểu thị ý
nghĩa tình thái ở nhiều cung bậc khác nhau. Sắc thái biểu cảm đa dạng,
sinh động: ở mức độ cao như ra lệnh (đi, ngay), trung bình như yêu cầu
(lên, vào), và mức thấp hơn như đề nghị (thôi, với) hay kêu gọi, động
viên (vào). Về tính tình thái liên nhân, chúng tôi cũng có thể phân xuất
theo cấp bậc rằng: đối với các phó từ ngay, đi, vai người nói ngang
hàng hoặc trên vai người nghe, người được cầu khiến; đối với các phó
từ như với, vai người nói có thể dưới hàng hoặc gần gũi, thân thiết với
người được cầu khiến. Tính tình thái về thời gian cũng có thể được
xem xét theo hai bậc khác nhau, đó là hành động cầu khiến phải được
thực thi tức khắc, ngay sau khi người đưa ra hành động cầu khiến như
với ngay, đi, và thời gian thực thi hành động được cầu khiến có thể xảy
ra sau thời điểm nói như với nào, vào, lên, với, thôi.
2.1.2. Nghĩa tình thái của nhóm phó từ chỉ mức độ.
Chúng tôi tập trung vào các phó từ có tần số xuất hiện thường
xuyên trong tiếng Việt như lắm, quá, tuyệt, vô cùng, cực, hết ý, .
Xét về ý nghĩa tình thái về thái độ đánh giá, chúng tôi đề xuất chia
nhóm phó từ này theo nhóm dựa vào sắc thái biểu thị:
+ Nhóm phó từ chỉ chuyên biểu thị tình thái đánh giá tích cực:
tuyệt, tuyệt vời, cực điểm, hết ý, hết sảy, hết sẩy, hết mực.
+ Nhóm phó từ chỉ chuyên biểu thị tình thái đánh giá tiêu cực:
quá lắm, hết nổi, hết sức, hết nước.
15
+ Nhóm phó từ có thể được dùng trong hai trường hợp, biểu thị cả
hai sắc thái đánh giá tùy thuộc vào từng ngôn cảnh: lắm, quá, quá
chừng, quá đỗi, vô cùng, cực, cực kì, cực độ, cực điểm...
Xét về ý nghĩa tình thái đánh giá mức độ, chúng tôi có thể chia các
phó từ này theo thang độ tăng dần như sau: lắm, quá, tuyệt (tuyệt vời),
vô cùng, hết sức/ hết ý (hết mực, hết mức...), cực/ cực kì (cực độ, cực
điểm). Sự chênh nhau về mức độ của các phó từ này là không đáng kể.
2.1.3. Nghĩa tình thái của nhóm phó từ chỉ sự tiếp tục, lặp lại
Chúng tôi nghiên cứu các từ lại, nữa, hoài, mãi/ mãi mãi, luôn.
Ý nghĩa tình thái của nhóm phó từ này theo chúng tôi là tình thái
biểu thị mối quan hệ giữa nội dung phát ngôn với hiện thực. Tình thái
trong mối quan hệ này là người nói xác nhận hay khẳng định hiện thực
đang diễn ra hay đã kết thúc; có tính chất lặp lại, tiếp diễn. Bên cạnh
đó, người nói còn thể hiện thái độ đánh giá đối với hiện thực sự tình:
thích hay không thích; tích cực hay tiêu cực...
2.1.4. Nghĩa tình thái của nhóm phó từ chỉ sự kết thúc, hoàn thành:
xong, rồi, hết
Nhóm phó từ xong, rồi, hết thuộc nhóm biểu thị ý nghĩa tình thái
của người nói về việc xác nhận tính thực hữu của hành vi. Nghĩa tình
thái này thuộc phạm trù tình thái chỉ mối quan hệ giữa nội dung phát
ngôn với thực tế của sự tình, đó là sự hoàn thành, chấm dứt, kết thúc
của diễn biến một quá trình, đặc trưng hay hành động.
2.1.5. Nghĩa tình thái của nhóm phó từ chỉ kết quả
Trong nhóm này, chúng tôi nghiên cứu các từ ra, được, mất, đi, phải.
Khi sử dụng nhóm phó từ chỉ kết quả, người nói xác nhận về tính
thực hữu của sự tình, quá trình chuyển biến của vị từ và tình thái đánh
giá (tích cực hay tiêu cực) về hiện thực của sự tình. Trong nhóm này,