Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghĩa tình thái của câu ghép chính phụ tiếng việt
PREMIUM
Số trang
157
Kích thước
1.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1370

Nghĩa tình thái của câu ghép chính phụ tiếng việt

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM HUỲNH HỒNG DIỄM

NGHĨA TÌNH THÁI CỦA

CÂU GHÉP CHÍNH PHỤ TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 60.22.02.40

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngôn ngữ học

ĐÀ NẴNG, NĂM 2017

Công trình được hoàn thành tại

Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Trọng Ngoãn

Phản biện 1: TS. Trần Văn Sáng

Phản biện 2: PGS. TS. Trương Thị Nhàn

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ

Ngôn ngữ học họp tại Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN vào ngày 14

tháng 01 năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin – Học liệu, Đại học Đà Nẵng

- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

1

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Ngay từ rất sớm, ngôn ngữ học nói chung, ngữ pháp học nói riêng đã

dành rất nhiều sự quan tâm cho đơn vị câu. Thế nhưng, ở ngữ pháp học cổ

điển cũng như khuynh hướng ngôn ngữ cấu trúc luận, đối tượng này chỉ

mới được xem xét trên bình diện ngữ pháp. Gần đây, với sự ra đời và phát

triển của ngữ pháp học chức năng và ngữ dụng học, các bình diện nghĩa

của câu, nhất là nghĩa tình thái, đã dần trở thành trọng tâm nghiên cứu của

ngôn ngữ học hiện đại.

Ở Việt Nam, đa số các công trình nghiên cứu về tình thái lại dành sự

ưu ái cho phương tiện từ vựng như tiểu từ tình thái, động từ tình thái, trợ

từ tình thái, quán ngữ tình thái, định ngữ tình thái… Trong khi đó, những

phương tiện ngữ pháp biểu thị tình thái như các kiểu câu ghép có kết từ

vẫn chưa nhận được sự quan tâm nghiên cứu đúng mức. Đặc biệt, vấn đề

nghĩa tình thái của câu ghép chính phụ lại càng chưa được quan tâm một

cách thỏa đáng để có hướng khai thác hệ thống và chuyên sâu. Vì vậy,

chúng tôi mong muốn nghiên cứu nghĩa tình thái trong câu ghép chính phụ

với các kết từ khác nhau từ góc độ lí thuyết tình thái để hiểu được hiệu quả

ngữ nghĩa và giá trị tu từ của chúng.

Với tư cách là giáo viên dạy Ngữ văn, chúng tôi nhận thấy rằng đề tài

nghiên cứu này sẽ mang lại nhiều điều hữu ích cho chính bản thân trong

quá trình giảng dạy bộ môn ở trường THPT. Việc giải quyết những vấn đề

về giá trị tình thái của câu ghép chính phụ sẽ giúp chúng tôi có định hướng

để hướng dẫn học sinh tiếp nhận, lĩnh hội tốt hơn giá trị của một tác phẩm

văn học dưới góc độ tình thái.

Những lí do trên đã thôi thúc chúng tôi khám phá đề tài Nghĩa tình

thái của câu ghép chính phụ tiếng Việt.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

2.1. Những công trình nghiên cứu về câu ghép chính phụ tiếng

Việt

Các nhà Việt ngữ học, ở những mức độ khác nhau, đã phân tích công

phu về cấu trúc của câu ghép tiếng Việt nói chung và câu ghép chính phụ

nói riêng. Họ đã miêu tả được tất cả các kiểu cấu trúc của câu ghép. Chúng

tôi xin điểm qua một số công trình nghiên cứu về câu ghép chính phụ của

các nhà Việt ngữ học như sau:

- Kết quả nghiên cứu về câu tiếng Việt của Diệp Quang Ban trong

Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2 (1998), Ngữ pháp Việt Nam (2013), Ngữ pháp

Việt Nam – Phần câu (2009) đã trình bày khá chi tiết về các tiểu loại trong

câu ghép chính phụ.

2

- Trong Ngữ pháp tiếng Việt (2002), Đỗ Thị Kim Liên đã trình bày

cách chia câu ghép chính phụ thành bốn loại dựa trên ý nghĩa và sự xuất

hiện của quan hệ từ.

- Cao Xuân Hạo trong công trình Ngữ pháp chức năng tiếng Việt,

quyển 1: câu trong tiếng Việt (2003) đã phủ nhận sự tồn tại của câu ghép

chính phụ.

- Trong công trình Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng (2004),

Cao Xuân Hạo chỉ dành bốn trang để bàn về cách nhận diện câu ghép với

tổ hợp câu trên bình diện nghĩa.

- Ba tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến,

trong Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (2005), chia câu ghép thành bốn

loại: câu ghép đẳng lập, câu ghép chính phụ, câu ghép qua lại và câu ghép

chuỗi.

- Trong Ngữ pháp tiếng Việt – Câu (2008), Hoàng Trọng Phiến đã xét

câu theo cấu trúc – ngữ nghĩa.

- Tác giả Nguyễn Thị Ly Kha cũng đã phân loại câu ghép theo cấu

trúc cú pháp trong công trình Ngữ pháp tiếng Việt (dành cho sinh viên,

giáo viên ngành giáo dục tiểu học) (2008). Theo đó, tác giả cho rằng có

năm tiểu nhóm trong câu ghép chính phụ.

- Trong Cú pháp tiếng Việt (2009), Nguyễn Văn Hiệp đã phân chia

câu ghép thành hai loại: câu ghép đẳng lập và câu ghép qua lại.

2.2. Những công trình nghiên cứu về nghĩa tình thái

Vấn đề tình thái trong ngôn ngữ cũng đã thu hút được sự quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu như Tiếng

Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của Cao Xuân Hạo

(1998), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học (2001) của Đỗ Hữu

Châu, Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt của Bùi Trọng

Ngoãn (luận án tiến sĩ) (2004), Giáo trình Ngữ dụng học của Đỗ Thị Kim

Liên (2005), Cú pháp tiếng Việt của Nguyễn Văn Hiệp (2009), Logic –

Ngôn ngữ học của Hoàng Phê (2011), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp

của Nguyễn Văn Hiệp (2012), Nghĩa học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp

(2014), Nghĩa tình thái của câu tiếng Việt trong các văn bản văn học

giảng dạy ở trường trung học phổ thông của Nguyễn Thị Nhung (đề tài

KH&CN cấp Bộ, 2015)…

2.3. Những công trình nghiên cứu về ý nghĩa tình thái trong câu

ghép có kết từ

- Trong luận án tiến sĩ Một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái

trong câu ghép tiếng Việt (2001), tác giả Ngô Thị Minh đã khảo sát các tác

tử như là phương tiện chuyên dùng biểu hiện ý nghĩa tình thái.

- Lai Nhã Trúc trong Ngữ nghĩa của liên từ tiếng Việt (luận văn thạc

sĩ, 2006) đã đề ra một hệ thống các liên từ nối các từ ngữ có cùng vai trò

3

cú pháp trong câu hoặc liên kết các thành phần câu đồng chức năng, các vế

câu, các câu, các đoạn văn.

- Trong luận văn thạc sĩ Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong

câu tiếng Việt (2008), Nguyễn Thị Thu Hà có phân tích cách biểu hiện mối

quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ trong câu tiếng Việt.

- Bài báo Ngữ nghĩa ngữ dụng của cặp liên từ lôgíc “nếu… thì…”

(2011) của tác giả Phạm Văn Tình chỉ khai thác giá trị lập luận của cặp

liên từ này chứ không phải ý nghĩa tình thái.

Sau khi có cái nhìn tổng quan như vậy, chúng tôi nhận thấy cho đến

nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề tình thái của

câu ghép chính phụ tiếng Việt. Vì vậy, chúng tôi hi vọng trong luận văn sẽ

đưa ra được cái nhìn tương đối toàn diện và xác đáng về vấn đề Nghĩa tình

thái của câu ghép chính phụ tiếng Việt.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghĩa tình thái của câu ghép chính

phụ tiếng Việt.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chỉ tập trung vào hai loại nghĩa tình thái là tình thái nhận

thức và tình thái đánh giá của câu ghép chính phụ tiếng Việt. Nguồn ngữ

liệu để phân tích là 1010 phát ngôn, được chúng tôi lấy từ văn bản nghệ

thuật và văn bản đời sống.

4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Mục đích của đề tài là phân tích và khái quát hóa nghĩa tình thái của

từng kiểu câu ghép chính phụ tiếng Việt.

Trên cơ sở đó, để thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định những

nhiệm vụ nghiên cứu như sau:

- Xác lập một danh sách các tiểu loại câu ghép chính phụ tiếng Việt đã

được phân chia theo các kết từ trong từng kiểu quan hệ.

- Phân tích, miêu tả những nội dung tình thái mà chúng biểu thị: tình

thái nhận thức, tình thái đánh giá… cùng các hàm ý tình thái đi kèm.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện nhiệm vụ, mục đích của luận văn, chúng tôi chủ yếu sử

dụng phương pháp miêu tả. Trong phương pháp này, chúng tôi sử dụng

những thủ pháp miêu tả bên trong và miêu tả bên ngoài. Thủ pháp miêu tả

bên trong bao gồm thủ pháp khảo sát, thủ pháp thống kê, thủ pháp phân

loại và hệ thống hóa. Thủ pháp miêu tả bên ngoài bao gồm thủ pháp phân

tích ngôn cảnh và các thủ pháp thử nghiệm.

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Về phương diện lí luận, luận văn góp phần nghiên cứu giá trị tình

thái của các cặp kết từ trong câu ghép chính phụ.

4

- Về phương diện thực tiễn, kết quả của luận văn giúp ích cho việc dạy

ngữ pháp trong nhà trường và cả cho người nước ngoài học tiếng Việt.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn còn là nguồn tư liệu có giá trị cho

việc nghiên cứu về các phương tiện ngữ pháp biểu thị nghĩa tình thái.

7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương. Cụ thể

như sau:

Chương 1: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài

Chương 2: Nghĩa tình thái nhận thức của các kiểu câu ghép chính

phụ tiếng Việt

Chương 3: Nghĩa tình thái đánh giá của các kiểu câu ghép chính

phụ tiếng Việt

5

CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. TÌNH THÁI TRONG NGÔN NGỮ

1.1.1. Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ

Trên cơ sở những nhận định của người đi trước, chúng tôi xin tổng kết

một số điểm chính về tình thái như sau:

- Tình thái là một trong hai bộ phận nghĩa quan trọng của cấu trúc ngữ

nghĩa câu. Nó tham gia vào quá trình thực tại hóa, biến nội dung sự tình

còn ở dạng tiềm năng trở thành một phát ngôn có giá trị giao tiếp thật sự.

- Tình thái thể hiện sự đánh giá, thái độ, cảm xúc hay ý định, mục

đích, quan hệ giữa người nói với nội dung sự tình, giữa người nói với

người nghe, giữa nội dung sự tình trong câu với hiện thực khách quan.

Điều đó có nghĩa khi nghiên cứu về tình thái, chúng ta cần quan tâm đến

sự tương tác nhiều chiều giữa bốn nhân tố của hoạt động giao tiếp: người

nói, người nghe, nội dung sự tình và thực tế.

- Nếu logic học chỉ quan tâm đến tình thái khách quan với ba tham số:

hiện thực/ phi hiện thực, tất yếu/ không tất yếu, có thể/ không thể; thì ngôn

ngữ học lại chú trọng đến tình thái chủ quan, tức là coi trọng vai trò của

người nói trong phát ngôn.

1.1.2. Phân loại các nghĩa tình thái

Từ việc tổng kết và nhìn nhận về các cách phân chia trên, chúng tôi đề

xuất cách phân chia nghĩa tình thái chủ quan gồm hai loại là tình thái nhận

thức và tình thái đánh giá. Điều đó có nghĩa chúng tôi chỉ xuất phát từ

điểm nhìn của chủ thể phát ngôn để làm tiêu chí phân loại.

Tình thái nhận thức là tình thái thể hiện tầm hiểu biết của cá nhân chủ

thể về mối quan hệ giữa điều được nói đến trong phát ngôn với hiện thực

khách quan. Và chúng tôi cũng chia tình thái nhận thức thành ba phạm trù

là:

- Tình thái thực hữu: Người nói biết rằng sự tình được nói đến đã xảy

ra trong thực tế hoặc tất yếu xảy ra trong thực tế.

- Tình thái phản thực hữu: Người nói biết rằng sự tình được nói đến là

không xảy ra trong thực tế hoặc tất yếu không xảy ra trong thực tế.

- Tình thái không thực hữu: Người nói biết rằng sự tình được nói đến

có thể xảy ra hoặc không xảy ra trong thực tế.

Tình thái đánh giá là tình thái thể hiện thái độ, tình cảm của người nói

đối với nội dung sự tình trong phát ngôn hoặc đối với người nghe.

- Tình thái đánh giá hướng đến sự tình: Người nói thể hiện sự đánh giá

sự tình được nói đến về phẩm chất (tích cực hay tiêu cực), về lượng (nhiều

hay ít), về chủng loại (phong phú hay nghèo nàn), về thời điểm (sớm hay

muộn)… hoặc bộc lộ thái độ, cảm xúc trước sự tình (hài lòng hay không

6

hài lòng, vui mừng hay bực tức, khẳng định hay phủ định…) hoặc muốn

nhấn mạnh một thông tin gì đó trong sự tình.

- Tình thái đánh giá hướng đến người nghe: Người nói bộc lộ thái độ,

cảm xúc đối với người nghe (kính cẩn hay khinh thường, vui mừng hay

bực tức, thân mật hay xa lạ…) hoặc muốn tác động đến nhận thức, tình

cảm của người nghe.

1.1.3. Các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ

a. Các phương tiện về ngữ âm

Các phương tiện về ngữ âm biểu hiện tình thái trong câu nói gồm có

ngữ điệu, trọng âm, thanh điệu, tiêu điểm phát ngôn của câu. Trong văn

bản viết, để nhận biết phương tiện ngữ âm biểu thị tình thái phải gắn với

ngôn cảnh, hệ thống dấu câu.

b. Các phương tiện từ vựng

- Phó từ làm thành phần phụ của vị từ: đã, sẽ, đang, từng, vừa, mới,

đều, cũng, vẫn, cứ, thường, hay, năng, ít, hiếm, hãy, đừng, chớ, rất, hơi,

khí, quá, lắm, không, chưa, chẳng, xong, rồi,…

- Vị từ tình thái tính làm thành tố chính trong ngữ đoạn vị từ: quyết,

nỡ, toan, định, muốn, đành, được, bị,...

- Động từ chỉ thái độ mệnh đề: e, lo, nghĩ, hiểu, tiếc…

- Động từ ngôn hành: yêu cầu, đề nghị, van, xin, ra lệnh,…

- Hô ngữ, thán từ: ôi, eo ôi, chao ôi, ồ, ô hay,…

- Tình thái ngữ: hình như, may là, may một cái là, đáng mừng là, đáng

tiếc là,…

- Quán ngữ tình thái: ai bảo, ai đời, nói gì thì nói, thảo nào, tội gì, kể

ra,…

- Trợ từ: đến, những, mỗi, ngay, cả, chính, đích thị,…

- Tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ tương đương tiểu từ tình

thái cuối câu: à, ư, nhỉ, nhé, nghe, chứ, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì

chết,…

- Từ ngữ chêm xen: nó biết cóc gì, kệ cha nó cho rồi, biết khỉ gì, cái

đếch gì,…

c. Các phương tiện ngữ pháp

c1. Thuộc thành phần phụ của câu

- Trạng ngữ

- Khởi ngữ

- Thành phần chú thích

- Định ngữ

c2. Các kết từ đóng vai trò là tác tử tình thái trong câu ghép:

- Trong câu ghép chính phụ: tuy… nhưng…, dẫu… nhưng…, nếu…

thì…, giá… thì…

- Trong câu ghép đẳng lập: … và…, … nhưng…, … mà…, … hay là…

- Trong câu ghép qua lại: càng… càng…, vừa… vừa…, (vừa) mới…

7

đã…, chẳng những… (mà) còn…, …nào… ấy, … bao nhiêu… bấy nhiêu ...

c3. Một số kiểu câu chứa ý nghĩa tình thái:

- Câu đặc biệt

- Câu dưới bậc

- Câu tỉnh lược

- Câu lặp lại chủ ngữ

- Câu trùng ngôn

- Câu khẳng định

- Câu phủ định

+ Phủ định chủ ngữ

+ Phủ định vị ngữ

+ Phủ định bổ ngữ

- Câu đẳng thức

1.2. CÂU GHÉP CHÍNH PHỤ

1.2.1. Khái niệm câu ghép chính phụ

Câu ghép chính phụ là loại câu thường có hai mệnh đề (hay vế câu)

không bao chứa nhau và được nối với nhau bằng kết từ; mối quan hệ giữa

các mệnh đề là không bình đẳng, mệnh đề này phụ thuộc vào mệnh đề kia

theo những kiểu quan hệ nhất định.

Để phân định câu ghép chính phụ và câu ghép qua lại, chúng tôi xin

đưa ra những đặc điểm khác biệt của chúng như sau:

Bảng 1.1: Bảng phân biệt câu ghép chính phụ và câu ghép qua lại

Các phương diện Câu ghép chính phụ Câu ghép qua lại

Về phương tiện nối kết

các vế

Dùng quan hệ từ để

nối kết, có thể là một

cặp kết từ hoặc chỉ cần

một quan hệ từ

(thường là quan hệ từ

ở vế phụ).

Dùng cặp phó từ hoặc

cặp đại từ để nối kết và

không thể lược bỏ một

phó từ, đại từ nào cả.

Về quan hệ ngữ pháp

giữa các vế

Các vế có quan hệ

không bình đẳng, có vế

giữ vai trò chính, có vế

giữ vai trò phụ.

Các vế có quan hệ qua

lại, một vế hô gọi và

một vế đáp lại.

Về quan hệ ngữ nghĩa

giữa các vế

Vế phụ nêu cảnh

huống của sự việc diễn

đạt ở vế chính.

Nội dung ngữ nghĩa

của các vế có quan hệ

tương đồng.

Về quan hệ lập luận

giữa các vế

Lập luận của các vế đi

theo hướng suy lý, từ

luận cứ (vế phụ) dẫn

đến kết luận (vế

chính): P → R.

Có thể xem các vế đều

là luận cứ và tác động

theo lập luận đồng

hướng nhằm hướng

đến một kết luận ẩn: P

– Q → (R).

8

Về trật tự các vế Trật tự các vế câu có

thể được thay đổi tùy

theo dụng ý của người

phát ngôn. Khi đó, kết

từ ở vế chính được

lược bỏ.

Trật tự các vế câu

không thể thay đổi

được.

Về khả năng tách vế

câu

Có thể tách vế phụ ra

thành câu dưới bậc

(với điều kiện là

chuyển vế phụ ra sau).

Không thể tách mỗi vế

thành câu đơn được.

Một vấn đề nữa cũng cần làm rõ đó là tiêu chí nhận diện câu ghép

chính phụ. Trên tinh thần tiếp thu và bổ sung ý kiến của các nhà nghiên

cứu ngôn ngữ, cụ thể là Diệp Quang Ban, chúng tôi có những tiêu chí về

hình thức để nhận diện câu ghép chính phụ làm tiền đề lí luận cho việc

khảo sát ngữ liệu như sau:

- Ở câu có hai vế đi kèm với cặp kết từ, nếu sau kết từ là cụm chủ - vị

thì đó là câu ghép chính phụ lí tưởng với mô hình xAyB.

- Nếu sau kết từ phụ thuộc là danh từ, đại từ hoặc cụm danh từ thì đó

là thành phần trạng ngữ của câu.

- Nếu sau kết từ phụ thuộc là động từ/ tính từ hoặc cụm động từ/ cụm

tính từ mà nó có cùng chủ thể với vế chính thì đó là vế phụ của câu ghép

chính phụ và chúng ta có thể khôi phục chủ ngữ bị tỉnh lược. Còn nếu ở vế

phụ có chủ thể bị tỉnh lược không trùng khít với chủ thể ở vế chính thì đó

là thành phần trạng ngữ và phải đặt phát ngôn vào ngữ cảnh cụ thể mới

khôi phục chủ ngữ được.

- Ở câu có hai vế và trước mỗi vế đều có kết từ, nếu sau kết từ phụ

thuộc là cụm chủ - vị còn sau kết từ ở vế chính là động từ/ tính từ hoặc

cụm động từ/ cụm tính từ thì vẫn xem đó là câu ghép chính phụ mà không

cần quan tâm có cùng chủ thể ở hai vế hay không. Nhưng nếu phát ngôn

đó đã bị đảo vị trí các vế thì chúng ta nhận thấy kiểu câu này hiếm khi xuất

hiện trong thực tế.

- Ở câu có hai vế và trước mỗi vế đều có kết từ, nếu sau mỗi kết từ là

động từ/ tính từ hoặc cụm động từ/ cụm tính từ mà chủ thể của vế chính bị

đảo lên đầu câu thì đó là câu ghép chính phụ (không cần quan tâm chủ thể

của vế phụ). Còn nếu không có chủ thể thì khó mà hiểu được nghĩa của

câu nếu không đặt nó trong ngữ cảnh.

- Ở câu có hai vế đủ kết cấu chủ - vị, nếu thiếu kết từ ở vế chính (có

dấu phẩy ngăn cách) thì vẫn xem đó là câu ghép chính phụ; còn nếu thiếu

quan hệ từ ở vế phụ thì cần phải xem xét các kết từ đó có tạo quan hệ đẳng

lập cho hai vế hay không.

- Đối với kiểu câu “muốn… thì…”, dù hai vế đều đầy đủ chủ - vị

nhưng chúng ta nên xem nó là câu đơn có trạng ngữ chỉ cảnh huống tinh

9

thần chứ không phải là câu ghép chính phụ. Bởi vì từ muốn còn rõ nghĩa

của một động từ nên nó không có tư cách làm quan hệ từ.

1.2.2. Các kiểu câu ghép chính phụ

Trong các quan điểm phân chia câu ghép chính phụ, chúng tôi thống

nhất với Diệp Quang Ban, chia câu ghép chính phụ thành bốn tiểu nhóm.

- Câu ghép có quan hệ nguyên nhân – kết quả là câu ghép chính phụ

mà vế phụ nêu sự tình làm nguyên nhân dẫn đến kết quả là sự tình ở vế

chính. Đầu vế phụ sẽ có các kết từ chỉ nguyên nhân như bởi, vì, tại, do,

nhờ…; đầu vế chính sẽ có các kết từ chỉ kết quả như (cho) nên, mà, là.

Trong kiểu câu này, nếu vế phụ đứng trước vế chính thì chúng tạo

thành quan hệ nguyên nhân – kết quả; nhưng nếu vế phụ đứng sau vế

chính thì chúng tạo thành quan hệ sự việc – nguyên nhân và phải lược bỏ

kết từ ở vế chính.

Tuy nhiên, đối với trường hợp dùng từ “sở dĩ” thì trật tự bao giờ cũng

là vế chính đứng trước vế phụ.

- Câu ghép có quan hệ điều kiện/ giả thiết – hệ quả là câu ghép chính

phụ mà vế phụ nêu sự tình làm điều kiện hoặc giả thiết để có được hệ quả

là sự tình ở vế chính. Đầu vế phụ sẽ có các kết từ chỉ điều kiện/ giả thiết

như nếu, hễ, giá, ví…; đầu vế chính sẽ có từ thì đánh dấu.

Trong kiểu câu này, nếu vế phụ đứng trước vế chính thì chúng tạo

thành quan hệ điều kiện/ giả thiết – hệ quả; nhưng nếu vế phụ đứng sau vế

chính thì chúng tạo thành quan hệ sự việc – điều kiện/ giả thiết và phải

lược bỏ kết từ ở vế chính.

Đối với câu ghép có cặp kết từ “nếu… thì…” với trật tự vế phụ đứng

trước, nó còn được dùng để diễn đạt quan hệ đối chiếu. Đối với kiểu câu

như thế này, từ thì bắt buộc có mặt.

- Câu ghép có quan hệ nhượng bộ - nghịch đối là câu ghép chính phụ

mà vế phụ nêu sự tình nhượng bộ, hiểu là yếu hơn vế kia, còn vế chính nêu

sự tình nghịch đối, tương phản lại. Đầu vế phụ sẽ có các kết từ chỉ sự

nhượng bộ như tuy, mặc dù, dù cho…; đầu vế chính sẽ có các kết từ

nhưng, mà, thì… đánh dấu.

Trong kiểu câu này, nếu vế phụ đứng trước vế chính thì chúng tạo

thành quan hệ nhượng bộ - nghịch đối; nhưng nếu vế phụ đứng sau vế

chính thì chúng tạo thành quan hệ sự việc – nhượng bộ và phải lược bỏ kết

từ ở vế chính.

- Câu ghép có quan hệ mục đích - sự kiện là câu ghép chính phụ mà vế

phụ nêu sự tình làm mục đích của sự kiện là sự tình ở vế chính. Đầu vế

phụ sẽ có các kết từ chỉ mục đích như để; đầu vế chính sẽ có từ thì đánh

dấu.

Trong kiểu câu này, nếu vế phụ đứng trước vế chính thì chúng tạo

thành quan hệ mục đích - sự kiện; nhưng nếu vế phụ đứng sau vế chính thì

10

chúng tạo thành quan hệ sự việc – mục đích và phải lược bỏ từ thì ở trước

vế chính.

11

CHƯƠNG 2:

NGHĨA TÌNH THÁI NHẬN THỨC

CỦA CÁC KIỂU CÂU GHÉP CHÍNH PHỤ TIẾNG VIỆT

2.1. NGHĨA TÌNH THÁI NHẬN THỨC CỦA CÁC KIỂU CÂU

GHÉP CÓ QUAN HỆ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ

Trong phần này, chúng tôi đã phân tích về nghĩa tình thái nhận thức

trong các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức trong mối quan hệ với trật tự

các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với nội dung phủ định trong các

mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với sự tình mang tính chất khách quan

và chủ quan.

Qua quá trình phân tích, chúng tôi tiểu kết lại diện mạo của nghĩa tình

thái nhận thức trong các kiểu câu ghép có quan hệ nguyên nhân – kết quả

như sau:

Bảng 2.1. Bảng khái quát nghĩa tình thái nhận thức

của các kiểu câu ghép có quan hệ nguyên nhân – kết quả

Cấu trúc Nghĩa tình thái

nhận thức

Quan hệ của hai sự tình

- Bởi vì A cho nên B

- Bởi vì A nên B

- Bởi A cho nên B

- Bởi A nên B

- Bởi vì/ vì bởi A mà B

- Vì A mà B

- Bởi chưng A cho nên B

- Vì A cho nên B

- Vì A nên B

- Vì A mà B

- A cho nên B

- A nên B

- Bởi vì A, B

- Bởi A, B

- Vì A, B

- B bởi vì/ vì bởi A

- B bởi A

- B vì A

Thực hữu

A xảy ra trước B,

B đang xảy ra hay tất yếu

xảy ra

- Tại vì A nên B

- Tại A nên B

- Tại A mà B

- Tại A, B

- B tại A

Thực hữu

A xảy ra trước,

B xảy ra ngay lập tức sau

A

- Do A nên B Thực hữu A đã xảy ra trong một

12

- Do A mà B

- Do A cho nên B

- Do A, B

- B do A

khoảng thời gian trước khi

có phát ngôn.

B đã xảy ra và còn tiếp

diễn sau khi có phát ngôn.

- Nhờ A cho nên B

- Nhờ A nên B

- Nhờ A mà B

- Nhờ A, B

- B nhờ A

Thực hữu

A hướng đến sự hiện diện

của một đối tượng.

B xảy ra ngay lập tức sau

khi có sự hiện diện của đối

tượng.

- Vì A thành ra B

- A thành ra B Thực hữu

A đã xảy ra một lần.

B diễn ra ngay lập tức sau

khi có A.

- Sở dĩ B là do A

- Sở dĩ B là vì A

- Sở dĩ B là bởi A

- Sở dĩ B là nhờ A

- B là do A

- B là nhờ A

- B là vì A

- B là bởi A

Thực hữu

A đã xảy ra và còn tồn tại

cả sau khi có phát ngôn.

B đã xảy ra hoặc tất yếu

xảy ra trong tương lai.

2.2. NGHĨA TÌNH THÁI NHẬN THỨC CỦA CÁC KIỂU CÂU

GHÉP CÓ QUAN HỆ ĐIỀU KIỆN/ GIẢ THIẾT – HỆ QUẢ

Trong phần này, chúng tôi đã kiến giải về nghĩa tình thái nhận thức

trong các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức trong mối quan hệ với trật tự

các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với thực tế được phản ánh.

Qua quá trình phân tích, chúng tôi tiểu kết lại diện mạo của nghĩa tình

thái nhận thức trong các kiểu câu ghép có quan hệ điều kiện/ giả thiết – hệ

quả như sau:

Bảng 2.2. Bảng khái quát nghĩa tình thái nhận thức

của các kiểu câu ghép có quan hệ điều kiện/ giả thiết – hệ quả

Cấu trúc Nghĩa tình thái

nhận thức

Quan hệ của hai sự tình

- Nếu (như) A thì B

- Nếu A thì B

- Nếu như A, B

- Nếu A, B

- B nếu A

- B nếu như A

Thực hữu

A là điều kiện khiến B tất yếu

xảy ra

Xác lập sự tương đương giữa

A và B (đối chiếu)

Phản thực hữu A là điều kiện dẫn đến B

Không thực hữu A là giả thiết cho B xảy ra

- Hễ A thì B

- Hễ A là B Thực hữu

A đã xuất hiện nhiều lần trong

quá khứ và vẫn có thể tiếp

diễn nhiều lần sau phát ngôn.

B xảy ra ngay lập tức sau A,

13

theo tần số xuất hiện của A.

- Miễn là A thì B

- Miễn sao A thì B

- Miễn sao A là B

- Miễn là A là B

- Miễn A là B

- Miễn sao A, B

- B, miễn là A

- B, miễn sao A

- B, miễn A

Thực hữu

A đã diễn ra một lần trong

quá khứ, B được trở thành

hiện thực đồng thời cùng với

phát ngôn.

- Ví như A thì B

- Ví dù A thì B

- Ví phỏng A thì B

- Ví dầu A, B

- Ví dụ A, B

- Ví dù A, B

Thực hữu

A là điều kiện khiến B tất yếu

xảy ra

Phản thực hữu A là điều kiện dẫn đến B

Không thực hữu A là giả thiết cho B xảy ra

- Giá mà A thì B

- Giá như A thì B

- Giá A thì B

- Giá A, B

Phản thực hữu A là điều kiện dẫn đến B

- Giả sử A thì B

- Giả dụ A thì B Phản thực hữu A là giả thiết dẫn đến B

- Phải chi A thì B

- Phải chi A, B Phản thực hữu A là giả thiết dẫn đến B

2.3. NGHĨA TÌNH THÁI NHẬN THỨC CỦA CÁC KIỂU CÂU

GHÉP CÓ QUAN HỆ NHƯỢNG BỘ - NGHỊCH ĐỐI

Trong phần này, chúng tôi đã phân tích về nghĩa tình thái nhận thức

trong các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức trong mối quan hệ với trật tự

các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với nội dung phủ định trong các

mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với quan hệ nghịch nhân quả.

Qua quá trình phân tích, chúng tôi tiểu kết lại diện mạo của nghĩa tình

thái nhận thức trong các kiểu câu ghép có quan hệ nhượng bộ - nghịch đối

như sau:

Bảng 2.3. Bảng khái quát nghĩa tình thái nhận thức

của các kiểu câu ghép có quan hệ nhượng bộ - nghịch đối

Cấu trúc Nghĩa tình thái

nhận thức

Quan hệ của hai sự tình

- Tuy A nhưng B

- Tuy A song B

- Tuy A mà B

- Tuy rằng A, B

- Tuy A, B

A thực hữu,

B thực hữu

Diễn ra đồng thời, đối lập,

A nhường cho B

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!