Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghĩa tình thái của câu ghép chính phụ tiếng việt
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PHẠM HUỲNH HỒNG DIỄM
NGHĨA TÌNH THÁI CỦA
CÂU GHÉP CHÍNH PHỤ TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngôn ngữ học
ĐÀ NẴNG, NĂM 2017
Công trình được hoàn thành tại
Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Trọng Ngoãn
Phản biện 1: TS. Trần Văn Sáng
Phản biện 2: PGS. TS. Trương Thị Nhàn
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
Ngôn ngữ học họp tại Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN vào ngày 14
tháng 01 năm 2017.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin – Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngay từ rất sớm, ngôn ngữ học nói chung, ngữ pháp học nói riêng đã
dành rất nhiều sự quan tâm cho đơn vị câu. Thế nhưng, ở ngữ pháp học cổ
điển cũng như khuynh hướng ngôn ngữ cấu trúc luận, đối tượng này chỉ
mới được xem xét trên bình diện ngữ pháp. Gần đây, với sự ra đời và phát
triển của ngữ pháp học chức năng và ngữ dụng học, các bình diện nghĩa
của câu, nhất là nghĩa tình thái, đã dần trở thành trọng tâm nghiên cứu của
ngôn ngữ học hiện đại.
Ở Việt Nam, đa số các công trình nghiên cứu về tình thái lại dành sự
ưu ái cho phương tiện từ vựng như tiểu từ tình thái, động từ tình thái, trợ
từ tình thái, quán ngữ tình thái, định ngữ tình thái… Trong khi đó, những
phương tiện ngữ pháp biểu thị tình thái như các kiểu câu ghép có kết từ
vẫn chưa nhận được sự quan tâm nghiên cứu đúng mức. Đặc biệt, vấn đề
nghĩa tình thái của câu ghép chính phụ lại càng chưa được quan tâm một
cách thỏa đáng để có hướng khai thác hệ thống và chuyên sâu. Vì vậy,
chúng tôi mong muốn nghiên cứu nghĩa tình thái trong câu ghép chính phụ
với các kết từ khác nhau từ góc độ lí thuyết tình thái để hiểu được hiệu quả
ngữ nghĩa và giá trị tu từ của chúng.
Với tư cách là giáo viên dạy Ngữ văn, chúng tôi nhận thấy rằng đề tài
nghiên cứu này sẽ mang lại nhiều điều hữu ích cho chính bản thân trong
quá trình giảng dạy bộ môn ở trường THPT. Việc giải quyết những vấn đề
về giá trị tình thái của câu ghép chính phụ sẽ giúp chúng tôi có định hướng
để hướng dẫn học sinh tiếp nhận, lĩnh hội tốt hơn giá trị của một tác phẩm
văn học dưới góc độ tình thái.
Những lí do trên đã thôi thúc chúng tôi khám phá đề tài Nghĩa tình
thái của câu ghép chính phụ tiếng Việt.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Những công trình nghiên cứu về câu ghép chính phụ tiếng
Việt
Các nhà Việt ngữ học, ở những mức độ khác nhau, đã phân tích công
phu về cấu trúc của câu ghép tiếng Việt nói chung và câu ghép chính phụ
nói riêng. Họ đã miêu tả được tất cả các kiểu cấu trúc của câu ghép. Chúng
tôi xin điểm qua một số công trình nghiên cứu về câu ghép chính phụ của
các nhà Việt ngữ học như sau:
- Kết quả nghiên cứu về câu tiếng Việt của Diệp Quang Ban trong
Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2 (1998), Ngữ pháp Việt Nam (2013), Ngữ pháp
Việt Nam – Phần câu (2009) đã trình bày khá chi tiết về các tiểu loại trong
câu ghép chính phụ.
2
- Trong Ngữ pháp tiếng Việt (2002), Đỗ Thị Kim Liên đã trình bày
cách chia câu ghép chính phụ thành bốn loại dựa trên ý nghĩa và sự xuất
hiện của quan hệ từ.
- Cao Xuân Hạo trong công trình Ngữ pháp chức năng tiếng Việt,
quyển 1: câu trong tiếng Việt (2003) đã phủ nhận sự tồn tại của câu ghép
chính phụ.
- Trong công trình Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng (2004),
Cao Xuân Hạo chỉ dành bốn trang để bàn về cách nhận diện câu ghép với
tổ hợp câu trên bình diện nghĩa.
- Ba tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến,
trong Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (2005), chia câu ghép thành bốn
loại: câu ghép đẳng lập, câu ghép chính phụ, câu ghép qua lại và câu ghép
chuỗi.
- Trong Ngữ pháp tiếng Việt – Câu (2008), Hoàng Trọng Phiến đã xét
câu theo cấu trúc – ngữ nghĩa.
- Tác giả Nguyễn Thị Ly Kha cũng đã phân loại câu ghép theo cấu
trúc cú pháp trong công trình Ngữ pháp tiếng Việt (dành cho sinh viên,
giáo viên ngành giáo dục tiểu học) (2008). Theo đó, tác giả cho rằng có
năm tiểu nhóm trong câu ghép chính phụ.
- Trong Cú pháp tiếng Việt (2009), Nguyễn Văn Hiệp đã phân chia
câu ghép thành hai loại: câu ghép đẳng lập và câu ghép qua lại.
2.2. Những công trình nghiên cứu về nghĩa tình thái
Vấn đề tình thái trong ngôn ngữ cũng đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu như Tiếng
Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của Cao Xuân Hạo
(1998), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học (2001) của Đỗ Hữu
Châu, Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt của Bùi Trọng
Ngoãn (luận án tiến sĩ) (2004), Giáo trình Ngữ dụng học của Đỗ Thị Kim
Liên (2005), Cú pháp tiếng Việt của Nguyễn Văn Hiệp (2009), Logic –
Ngôn ngữ học của Hoàng Phê (2011), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp
của Nguyễn Văn Hiệp (2012), Nghĩa học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp
(2014), Nghĩa tình thái của câu tiếng Việt trong các văn bản văn học
giảng dạy ở trường trung học phổ thông của Nguyễn Thị Nhung (đề tài
KH&CN cấp Bộ, 2015)…
2.3. Những công trình nghiên cứu về ý nghĩa tình thái trong câu
ghép có kết từ
- Trong luận án tiến sĩ Một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa tình thái
trong câu ghép tiếng Việt (2001), tác giả Ngô Thị Minh đã khảo sát các tác
tử như là phương tiện chuyên dùng biểu hiện ý nghĩa tình thái.
- Lai Nhã Trúc trong Ngữ nghĩa của liên từ tiếng Việt (luận văn thạc
sĩ, 2006) đã đề ra một hệ thống các liên từ nối các từ ngữ có cùng vai trò
3
cú pháp trong câu hoặc liên kết các thành phần câu đồng chức năng, các vế
câu, các câu, các đoạn văn.
- Trong luận văn thạc sĩ Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong
câu tiếng Việt (2008), Nguyễn Thị Thu Hà có phân tích cách biểu hiện mối
quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ trong câu tiếng Việt.
- Bài báo Ngữ nghĩa ngữ dụng của cặp liên từ lôgíc “nếu… thì…”
(2011) của tác giả Phạm Văn Tình chỉ khai thác giá trị lập luận của cặp
liên từ này chứ không phải ý nghĩa tình thái.
Sau khi có cái nhìn tổng quan như vậy, chúng tôi nhận thấy cho đến
nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề tình thái của
câu ghép chính phụ tiếng Việt. Vì vậy, chúng tôi hi vọng trong luận văn sẽ
đưa ra được cái nhìn tương đối toàn diện và xác đáng về vấn đề Nghĩa tình
thái của câu ghép chính phụ tiếng Việt.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghĩa tình thái của câu ghép chính
phụ tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung vào hai loại nghĩa tình thái là tình thái nhận
thức và tình thái đánh giá của câu ghép chính phụ tiếng Việt. Nguồn ngữ
liệu để phân tích là 1010 phát ngôn, được chúng tôi lấy từ văn bản nghệ
thuật và văn bản đời sống.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích của đề tài là phân tích và khái quát hóa nghĩa tình thái của
từng kiểu câu ghép chính phụ tiếng Việt.
Trên cơ sở đó, để thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định những
nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Xác lập một danh sách các tiểu loại câu ghép chính phụ tiếng Việt đã
được phân chia theo các kết từ trong từng kiểu quan hệ.
- Phân tích, miêu tả những nội dung tình thái mà chúng biểu thị: tình
thái nhận thức, tình thái đánh giá… cùng các hàm ý tình thái đi kèm.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện nhiệm vụ, mục đích của luận văn, chúng tôi chủ yếu sử
dụng phương pháp miêu tả. Trong phương pháp này, chúng tôi sử dụng
những thủ pháp miêu tả bên trong và miêu tả bên ngoài. Thủ pháp miêu tả
bên trong bao gồm thủ pháp khảo sát, thủ pháp thống kê, thủ pháp phân
loại và hệ thống hóa. Thủ pháp miêu tả bên ngoài bao gồm thủ pháp phân
tích ngôn cảnh và các thủ pháp thử nghiệm.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Về phương diện lí luận, luận văn góp phần nghiên cứu giá trị tình
thái của các cặp kết từ trong câu ghép chính phụ.
4
- Về phương diện thực tiễn, kết quả của luận văn giúp ích cho việc dạy
ngữ pháp trong nhà trường và cả cho người nước ngoài học tiếng Việt.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn còn là nguồn tư liệu có giá trị cho
việc nghiên cứu về các phương tiện ngữ pháp biểu thị nghĩa tình thái.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương. Cụ thể
như sau:
Chương 1: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Nghĩa tình thái nhận thức của các kiểu câu ghép chính
phụ tiếng Việt
Chương 3: Nghĩa tình thái đánh giá của các kiểu câu ghép chính
phụ tiếng Việt
5
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH THÁI TRONG NGÔN NGỮ
1.1.1. Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ
Trên cơ sở những nhận định của người đi trước, chúng tôi xin tổng kết
một số điểm chính về tình thái như sau:
- Tình thái là một trong hai bộ phận nghĩa quan trọng của cấu trúc ngữ
nghĩa câu. Nó tham gia vào quá trình thực tại hóa, biến nội dung sự tình
còn ở dạng tiềm năng trở thành một phát ngôn có giá trị giao tiếp thật sự.
- Tình thái thể hiện sự đánh giá, thái độ, cảm xúc hay ý định, mục
đích, quan hệ giữa người nói với nội dung sự tình, giữa người nói với
người nghe, giữa nội dung sự tình trong câu với hiện thực khách quan.
Điều đó có nghĩa khi nghiên cứu về tình thái, chúng ta cần quan tâm đến
sự tương tác nhiều chiều giữa bốn nhân tố của hoạt động giao tiếp: người
nói, người nghe, nội dung sự tình và thực tế.
- Nếu logic học chỉ quan tâm đến tình thái khách quan với ba tham số:
hiện thực/ phi hiện thực, tất yếu/ không tất yếu, có thể/ không thể; thì ngôn
ngữ học lại chú trọng đến tình thái chủ quan, tức là coi trọng vai trò của
người nói trong phát ngôn.
1.1.2. Phân loại các nghĩa tình thái
Từ việc tổng kết và nhìn nhận về các cách phân chia trên, chúng tôi đề
xuất cách phân chia nghĩa tình thái chủ quan gồm hai loại là tình thái nhận
thức và tình thái đánh giá. Điều đó có nghĩa chúng tôi chỉ xuất phát từ
điểm nhìn của chủ thể phát ngôn để làm tiêu chí phân loại.
Tình thái nhận thức là tình thái thể hiện tầm hiểu biết của cá nhân chủ
thể về mối quan hệ giữa điều được nói đến trong phát ngôn với hiện thực
khách quan. Và chúng tôi cũng chia tình thái nhận thức thành ba phạm trù
là:
- Tình thái thực hữu: Người nói biết rằng sự tình được nói đến đã xảy
ra trong thực tế hoặc tất yếu xảy ra trong thực tế.
- Tình thái phản thực hữu: Người nói biết rằng sự tình được nói đến là
không xảy ra trong thực tế hoặc tất yếu không xảy ra trong thực tế.
- Tình thái không thực hữu: Người nói biết rằng sự tình được nói đến
có thể xảy ra hoặc không xảy ra trong thực tế.
Tình thái đánh giá là tình thái thể hiện thái độ, tình cảm của người nói
đối với nội dung sự tình trong phát ngôn hoặc đối với người nghe.
- Tình thái đánh giá hướng đến sự tình: Người nói thể hiện sự đánh giá
sự tình được nói đến về phẩm chất (tích cực hay tiêu cực), về lượng (nhiều
hay ít), về chủng loại (phong phú hay nghèo nàn), về thời điểm (sớm hay
muộn)… hoặc bộc lộ thái độ, cảm xúc trước sự tình (hài lòng hay không
6
hài lòng, vui mừng hay bực tức, khẳng định hay phủ định…) hoặc muốn
nhấn mạnh một thông tin gì đó trong sự tình.
- Tình thái đánh giá hướng đến người nghe: Người nói bộc lộ thái độ,
cảm xúc đối với người nghe (kính cẩn hay khinh thường, vui mừng hay
bực tức, thân mật hay xa lạ…) hoặc muốn tác động đến nhận thức, tình
cảm của người nghe.
1.1.3. Các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ
a. Các phương tiện về ngữ âm
Các phương tiện về ngữ âm biểu hiện tình thái trong câu nói gồm có
ngữ điệu, trọng âm, thanh điệu, tiêu điểm phát ngôn của câu. Trong văn
bản viết, để nhận biết phương tiện ngữ âm biểu thị tình thái phải gắn với
ngôn cảnh, hệ thống dấu câu.
b. Các phương tiện từ vựng
- Phó từ làm thành phần phụ của vị từ: đã, sẽ, đang, từng, vừa, mới,
đều, cũng, vẫn, cứ, thường, hay, năng, ít, hiếm, hãy, đừng, chớ, rất, hơi,
khí, quá, lắm, không, chưa, chẳng, xong, rồi,…
- Vị từ tình thái tính làm thành tố chính trong ngữ đoạn vị từ: quyết,
nỡ, toan, định, muốn, đành, được, bị,...
- Động từ chỉ thái độ mệnh đề: e, lo, nghĩ, hiểu, tiếc…
- Động từ ngôn hành: yêu cầu, đề nghị, van, xin, ra lệnh,…
- Hô ngữ, thán từ: ôi, eo ôi, chao ôi, ồ, ô hay,…
- Tình thái ngữ: hình như, may là, may một cái là, đáng mừng là, đáng
tiếc là,…
- Quán ngữ tình thái: ai bảo, ai đời, nói gì thì nói, thảo nào, tội gì, kể
ra,…
- Trợ từ: đến, những, mỗi, ngay, cả, chính, đích thị,…
- Tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ tương đương tiểu từ tình
thái cuối câu: à, ư, nhỉ, nhé, nghe, chứ, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì
chết,…
- Từ ngữ chêm xen: nó biết cóc gì, kệ cha nó cho rồi, biết khỉ gì, cái
đếch gì,…
c. Các phương tiện ngữ pháp
c1. Thuộc thành phần phụ của câu
- Trạng ngữ
- Khởi ngữ
- Thành phần chú thích
- Định ngữ
c2. Các kết từ đóng vai trò là tác tử tình thái trong câu ghép:
- Trong câu ghép chính phụ: tuy… nhưng…, dẫu… nhưng…, nếu…
thì…, giá… thì…
- Trong câu ghép đẳng lập: … và…, … nhưng…, … mà…, … hay là…
- Trong câu ghép qua lại: càng… càng…, vừa… vừa…, (vừa) mới…
7
đã…, chẳng những… (mà) còn…, …nào… ấy, … bao nhiêu… bấy nhiêu ...
c3. Một số kiểu câu chứa ý nghĩa tình thái:
- Câu đặc biệt
- Câu dưới bậc
- Câu tỉnh lược
- Câu lặp lại chủ ngữ
- Câu trùng ngôn
- Câu khẳng định
- Câu phủ định
+ Phủ định chủ ngữ
+ Phủ định vị ngữ
+ Phủ định bổ ngữ
- Câu đẳng thức
1.2. CÂU GHÉP CHÍNH PHỤ
1.2.1. Khái niệm câu ghép chính phụ
Câu ghép chính phụ là loại câu thường có hai mệnh đề (hay vế câu)
không bao chứa nhau và được nối với nhau bằng kết từ; mối quan hệ giữa
các mệnh đề là không bình đẳng, mệnh đề này phụ thuộc vào mệnh đề kia
theo những kiểu quan hệ nhất định.
Để phân định câu ghép chính phụ và câu ghép qua lại, chúng tôi xin
đưa ra những đặc điểm khác biệt của chúng như sau:
Bảng 1.1: Bảng phân biệt câu ghép chính phụ và câu ghép qua lại
Các phương diện Câu ghép chính phụ Câu ghép qua lại
Về phương tiện nối kết
các vế
Dùng quan hệ từ để
nối kết, có thể là một
cặp kết từ hoặc chỉ cần
một quan hệ từ
(thường là quan hệ từ
ở vế phụ).
Dùng cặp phó từ hoặc
cặp đại từ để nối kết và
không thể lược bỏ một
phó từ, đại từ nào cả.
Về quan hệ ngữ pháp
giữa các vế
Các vế có quan hệ
không bình đẳng, có vế
giữ vai trò chính, có vế
giữ vai trò phụ.
Các vế có quan hệ qua
lại, một vế hô gọi và
một vế đáp lại.
Về quan hệ ngữ nghĩa
giữa các vế
Vế phụ nêu cảnh
huống của sự việc diễn
đạt ở vế chính.
Nội dung ngữ nghĩa
của các vế có quan hệ
tương đồng.
Về quan hệ lập luận
giữa các vế
Lập luận của các vế đi
theo hướng suy lý, từ
luận cứ (vế phụ) dẫn
đến kết luận (vế
chính): P → R.
Có thể xem các vế đều
là luận cứ và tác động
theo lập luận đồng
hướng nhằm hướng
đến một kết luận ẩn: P
– Q → (R).
8
Về trật tự các vế Trật tự các vế câu có
thể được thay đổi tùy
theo dụng ý của người
phát ngôn. Khi đó, kết
từ ở vế chính được
lược bỏ.
Trật tự các vế câu
không thể thay đổi
được.
Về khả năng tách vế
câu
Có thể tách vế phụ ra
thành câu dưới bậc
(với điều kiện là
chuyển vế phụ ra sau).
Không thể tách mỗi vế
thành câu đơn được.
Một vấn đề nữa cũng cần làm rõ đó là tiêu chí nhận diện câu ghép
chính phụ. Trên tinh thần tiếp thu và bổ sung ý kiến của các nhà nghiên
cứu ngôn ngữ, cụ thể là Diệp Quang Ban, chúng tôi có những tiêu chí về
hình thức để nhận diện câu ghép chính phụ làm tiền đề lí luận cho việc
khảo sát ngữ liệu như sau:
- Ở câu có hai vế đi kèm với cặp kết từ, nếu sau kết từ là cụm chủ - vị
thì đó là câu ghép chính phụ lí tưởng với mô hình xAyB.
- Nếu sau kết từ phụ thuộc là danh từ, đại từ hoặc cụm danh từ thì đó
là thành phần trạng ngữ của câu.
- Nếu sau kết từ phụ thuộc là động từ/ tính từ hoặc cụm động từ/ cụm
tính từ mà nó có cùng chủ thể với vế chính thì đó là vế phụ của câu ghép
chính phụ và chúng ta có thể khôi phục chủ ngữ bị tỉnh lược. Còn nếu ở vế
phụ có chủ thể bị tỉnh lược không trùng khít với chủ thể ở vế chính thì đó
là thành phần trạng ngữ và phải đặt phát ngôn vào ngữ cảnh cụ thể mới
khôi phục chủ ngữ được.
- Ở câu có hai vế và trước mỗi vế đều có kết từ, nếu sau kết từ phụ
thuộc là cụm chủ - vị còn sau kết từ ở vế chính là động từ/ tính từ hoặc
cụm động từ/ cụm tính từ thì vẫn xem đó là câu ghép chính phụ mà không
cần quan tâm có cùng chủ thể ở hai vế hay không. Nhưng nếu phát ngôn
đó đã bị đảo vị trí các vế thì chúng ta nhận thấy kiểu câu này hiếm khi xuất
hiện trong thực tế.
- Ở câu có hai vế và trước mỗi vế đều có kết từ, nếu sau mỗi kết từ là
động từ/ tính từ hoặc cụm động từ/ cụm tính từ mà chủ thể của vế chính bị
đảo lên đầu câu thì đó là câu ghép chính phụ (không cần quan tâm chủ thể
của vế phụ). Còn nếu không có chủ thể thì khó mà hiểu được nghĩa của
câu nếu không đặt nó trong ngữ cảnh.
- Ở câu có hai vế đủ kết cấu chủ - vị, nếu thiếu kết từ ở vế chính (có
dấu phẩy ngăn cách) thì vẫn xem đó là câu ghép chính phụ; còn nếu thiếu
quan hệ từ ở vế phụ thì cần phải xem xét các kết từ đó có tạo quan hệ đẳng
lập cho hai vế hay không.
- Đối với kiểu câu “muốn… thì…”, dù hai vế đều đầy đủ chủ - vị
nhưng chúng ta nên xem nó là câu đơn có trạng ngữ chỉ cảnh huống tinh
9
thần chứ không phải là câu ghép chính phụ. Bởi vì từ muốn còn rõ nghĩa
của một động từ nên nó không có tư cách làm quan hệ từ.
1.2.2. Các kiểu câu ghép chính phụ
Trong các quan điểm phân chia câu ghép chính phụ, chúng tôi thống
nhất với Diệp Quang Ban, chia câu ghép chính phụ thành bốn tiểu nhóm.
- Câu ghép có quan hệ nguyên nhân – kết quả là câu ghép chính phụ
mà vế phụ nêu sự tình làm nguyên nhân dẫn đến kết quả là sự tình ở vế
chính. Đầu vế phụ sẽ có các kết từ chỉ nguyên nhân như bởi, vì, tại, do,
nhờ…; đầu vế chính sẽ có các kết từ chỉ kết quả như (cho) nên, mà, là.
Trong kiểu câu này, nếu vế phụ đứng trước vế chính thì chúng tạo
thành quan hệ nguyên nhân – kết quả; nhưng nếu vế phụ đứng sau vế
chính thì chúng tạo thành quan hệ sự việc – nguyên nhân và phải lược bỏ
kết từ ở vế chính.
Tuy nhiên, đối với trường hợp dùng từ “sở dĩ” thì trật tự bao giờ cũng
là vế chính đứng trước vế phụ.
- Câu ghép có quan hệ điều kiện/ giả thiết – hệ quả là câu ghép chính
phụ mà vế phụ nêu sự tình làm điều kiện hoặc giả thiết để có được hệ quả
là sự tình ở vế chính. Đầu vế phụ sẽ có các kết từ chỉ điều kiện/ giả thiết
như nếu, hễ, giá, ví…; đầu vế chính sẽ có từ thì đánh dấu.
Trong kiểu câu này, nếu vế phụ đứng trước vế chính thì chúng tạo
thành quan hệ điều kiện/ giả thiết – hệ quả; nhưng nếu vế phụ đứng sau vế
chính thì chúng tạo thành quan hệ sự việc – điều kiện/ giả thiết và phải
lược bỏ kết từ ở vế chính.
Đối với câu ghép có cặp kết từ “nếu… thì…” với trật tự vế phụ đứng
trước, nó còn được dùng để diễn đạt quan hệ đối chiếu. Đối với kiểu câu
như thế này, từ thì bắt buộc có mặt.
- Câu ghép có quan hệ nhượng bộ - nghịch đối là câu ghép chính phụ
mà vế phụ nêu sự tình nhượng bộ, hiểu là yếu hơn vế kia, còn vế chính nêu
sự tình nghịch đối, tương phản lại. Đầu vế phụ sẽ có các kết từ chỉ sự
nhượng bộ như tuy, mặc dù, dù cho…; đầu vế chính sẽ có các kết từ
nhưng, mà, thì… đánh dấu.
Trong kiểu câu này, nếu vế phụ đứng trước vế chính thì chúng tạo
thành quan hệ nhượng bộ - nghịch đối; nhưng nếu vế phụ đứng sau vế
chính thì chúng tạo thành quan hệ sự việc – nhượng bộ và phải lược bỏ kết
từ ở vế chính.
- Câu ghép có quan hệ mục đích - sự kiện là câu ghép chính phụ mà vế
phụ nêu sự tình làm mục đích của sự kiện là sự tình ở vế chính. Đầu vế
phụ sẽ có các kết từ chỉ mục đích như để; đầu vế chính sẽ có từ thì đánh
dấu.
Trong kiểu câu này, nếu vế phụ đứng trước vế chính thì chúng tạo
thành quan hệ mục đích - sự kiện; nhưng nếu vế phụ đứng sau vế chính thì
10
chúng tạo thành quan hệ sự việc – mục đích và phải lược bỏ từ thì ở trước
vế chính.
11
CHƯƠNG 2:
NGHĨA TÌNH THÁI NHẬN THỨC
CỦA CÁC KIỂU CÂU GHÉP CHÍNH PHỤ TIẾNG VIỆT
2.1. NGHĨA TÌNH THÁI NHẬN THỨC CỦA CÁC KIỂU CÂU
GHÉP CÓ QUAN HỆ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ
Trong phần này, chúng tôi đã phân tích về nghĩa tình thái nhận thức
trong các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức trong mối quan hệ với trật tự
các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với nội dung phủ định trong các
mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với sự tình mang tính chất khách quan
và chủ quan.
Qua quá trình phân tích, chúng tôi tiểu kết lại diện mạo của nghĩa tình
thái nhận thức trong các kiểu câu ghép có quan hệ nguyên nhân – kết quả
như sau:
Bảng 2.1. Bảng khái quát nghĩa tình thái nhận thức
của các kiểu câu ghép có quan hệ nguyên nhân – kết quả
Cấu trúc Nghĩa tình thái
nhận thức
Quan hệ của hai sự tình
- Bởi vì A cho nên B
- Bởi vì A nên B
- Bởi A cho nên B
- Bởi A nên B
- Bởi vì/ vì bởi A mà B
- Vì A mà B
- Bởi chưng A cho nên B
- Vì A cho nên B
- Vì A nên B
- Vì A mà B
- A cho nên B
- A nên B
- Bởi vì A, B
- Bởi A, B
- Vì A, B
- B bởi vì/ vì bởi A
- B bởi A
- B vì A
Thực hữu
A xảy ra trước B,
B đang xảy ra hay tất yếu
xảy ra
- Tại vì A nên B
- Tại A nên B
- Tại A mà B
- Tại A, B
- B tại A
Thực hữu
A xảy ra trước,
B xảy ra ngay lập tức sau
A
- Do A nên B Thực hữu A đã xảy ra trong một
12
- Do A mà B
- Do A cho nên B
- Do A, B
- B do A
khoảng thời gian trước khi
có phát ngôn.
B đã xảy ra và còn tiếp
diễn sau khi có phát ngôn.
- Nhờ A cho nên B
- Nhờ A nên B
- Nhờ A mà B
- Nhờ A, B
- B nhờ A
Thực hữu
A hướng đến sự hiện diện
của một đối tượng.
B xảy ra ngay lập tức sau
khi có sự hiện diện của đối
tượng.
- Vì A thành ra B
- A thành ra B Thực hữu
A đã xảy ra một lần.
B diễn ra ngay lập tức sau
khi có A.
- Sở dĩ B là do A
- Sở dĩ B là vì A
- Sở dĩ B là bởi A
- Sở dĩ B là nhờ A
- B là do A
- B là nhờ A
- B là vì A
- B là bởi A
Thực hữu
A đã xảy ra và còn tồn tại
cả sau khi có phát ngôn.
B đã xảy ra hoặc tất yếu
xảy ra trong tương lai.
2.2. NGHĨA TÌNH THÁI NHẬN THỨC CỦA CÁC KIỂU CÂU
GHÉP CÓ QUAN HỆ ĐIỀU KIỆN/ GIẢ THIẾT – HỆ QUẢ
Trong phần này, chúng tôi đã kiến giải về nghĩa tình thái nhận thức
trong các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức trong mối quan hệ với trật tự
các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với thực tế được phản ánh.
Qua quá trình phân tích, chúng tôi tiểu kết lại diện mạo của nghĩa tình
thái nhận thức trong các kiểu câu ghép có quan hệ điều kiện/ giả thiết – hệ
quả như sau:
Bảng 2.2. Bảng khái quát nghĩa tình thái nhận thức
của các kiểu câu ghép có quan hệ điều kiện/ giả thiết – hệ quả
Cấu trúc Nghĩa tình thái
nhận thức
Quan hệ của hai sự tình
- Nếu (như) A thì B
- Nếu A thì B
- Nếu như A, B
- Nếu A, B
- B nếu A
- B nếu như A
Thực hữu
A là điều kiện khiến B tất yếu
xảy ra
Xác lập sự tương đương giữa
A và B (đối chiếu)
Phản thực hữu A là điều kiện dẫn đến B
Không thực hữu A là giả thiết cho B xảy ra
- Hễ A thì B
- Hễ A là B Thực hữu
A đã xuất hiện nhiều lần trong
quá khứ và vẫn có thể tiếp
diễn nhiều lần sau phát ngôn.
B xảy ra ngay lập tức sau A,
13
theo tần số xuất hiện của A.
- Miễn là A thì B
- Miễn sao A thì B
- Miễn sao A là B
- Miễn là A là B
- Miễn A là B
- Miễn sao A, B
- B, miễn là A
- B, miễn sao A
- B, miễn A
Thực hữu
A đã diễn ra một lần trong
quá khứ, B được trở thành
hiện thực đồng thời cùng với
phát ngôn.
- Ví như A thì B
- Ví dù A thì B
- Ví phỏng A thì B
- Ví dầu A, B
- Ví dụ A, B
- Ví dù A, B
Thực hữu
A là điều kiện khiến B tất yếu
xảy ra
Phản thực hữu A là điều kiện dẫn đến B
Không thực hữu A là giả thiết cho B xảy ra
- Giá mà A thì B
- Giá như A thì B
- Giá A thì B
- Giá A, B
Phản thực hữu A là điều kiện dẫn đến B
- Giả sử A thì B
- Giả dụ A thì B Phản thực hữu A là giả thiết dẫn đến B
- Phải chi A thì B
- Phải chi A, B Phản thực hữu A là giả thiết dẫn đến B
2.3. NGHĨA TÌNH THÁI NHẬN THỨC CỦA CÁC KIỂU CÂU
GHÉP CÓ QUAN HỆ NHƯỢNG BỘ - NGHỊCH ĐỐI
Trong phần này, chúng tôi đã phân tích về nghĩa tình thái nhận thức
trong các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức trong mối quan hệ với trật tự
các mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với nội dung phủ định trong các
mệnh đề, nghĩa tình thái nhận thức với quan hệ nghịch nhân quả.
Qua quá trình phân tích, chúng tôi tiểu kết lại diện mạo của nghĩa tình
thái nhận thức trong các kiểu câu ghép có quan hệ nhượng bộ - nghịch đối
như sau:
Bảng 2.3. Bảng khái quát nghĩa tình thái nhận thức
của các kiểu câu ghép có quan hệ nhượng bộ - nghịch đối
Cấu trúc Nghĩa tình thái
nhận thức
Quan hệ của hai sự tình
- Tuy A nhưng B
- Tuy A song B
- Tuy A mà B
- Tuy rằng A, B
- Tuy A, B
A thực hữu,
B thực hữu
Diễn ra đồng thời, đối lập,
A nhường cho B