Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghệ thuật truyện ngắn hồng nhu
PREMIUM
Số trang
140
Kích thước
1.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
745

Nghệ thuật truyện ngắn hồng nhu

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PHAN THỊ THANH HẢI

NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN HỒNG NHU

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 60.22.34

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - Năm 2012

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HỒ THẾ HÀ

Phản biện 1: PGS.TS. NGUYỄN PHONG NAM

Phản biện 2: TS. LÊ THỊ HƯỜNG

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn

thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học

Đà Nẵng vào ngày 01 tháng 12 năm 2012.

* Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng

- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Hơn thế kỉ qua, truyện ngắn viết về miền Trung đã có những

đóng góp quan trọng trong nền văn học hiện đại nước nhà. Thành tựu

của mảng đề tài này thể hiện ở cả đội ngũ sáng tác và kết tinh của

không ít tác giả, tác phẩm. Ngoài những tác giả và tác phẩm đã được

bạn đọc cả nước chú ý, vẫn còn rất nhiều tác giả và tác phẩm chưa

được giới thiệu rộng rãi. Trong đó, đáng chú ý nhất là nhà văn Hồng

Nhu. Ánh lên trong truyện ngắn của ông là sự từng trải và tinh tế,

một lối viết đầy chiêm nghiệm về cuộc đời và số phận. Và cũng thật

thích thú khi chúng ta tìm thấy trong truyện ngắn Hồng Nhu một nền

văn hóa sông nước, những tập tục lễ hội gắn liền với đời sống tâm

linh của con người vùng phá Tam Giang nổi tiếng ở Huế. Nếu nói

đến văn học Huế, các nhà nghiên cứu và bạn đọc không thể quên cái

tên: Hồng Nhu.

Hồng Nhu là nhà văn thuộc hàng cao tuổi nhất ở Huế. Trong

cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình, ông đã thể nghiệm qua

nhiều thể loại như sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, nghiên cứu

phê bình...Nhưng có lẽ hay nhất và đều tay nhất là khi ông viết

truyện ngắn.

Với những đóng góp của mình đối với nền văn học nước nhà,

Hồng Nhu đã nhận được nhiều giải thưởng của địa phương cũng như

trung ương: hai lần giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, hai lần giải

thưởng Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ba lần giải thưởng Văn học

Nghệ thuật Cố đô...Đặc biệt, năm 2012, ông được giải thưởng nhà

nước về Văn học Nghệ thuật qua hai tập truyện Trà thiếu phụ và Vịt

trời lông tía bay về .

Những nguyên nhân trên cùng với lòng yêu mến truyện ngắn

Hồng Nhu là động lực khiến chúng tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu

những đặc điểm truyện ngắn của ông, cũng như muốn khẳng định sự

đóng góp của ông cho văn học miền Trung nói riêng và văn học Việt

Nam hiện đại nói chung qua đề tài “Nghệ thuật truyện ngắn Hồng

Nhu”.

2. Lịch sử vấn đề

Hồng Nhu bắt đầu sáng tác văn nghệ (ca khúc) từ năm 1950,

viết truyện ngắn đầu tay năm 1955, khi ông còn là lính sư đoàn 325 -

đơn vị anh hùng từng lập những chiến tích lẫy lừng trên chiến trường

Bình Trị Thiên và Trung Lào, nhưng 15 năm sau, lúc ông “đầu quân”

vào Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, mới xuất bản được tác phẩm đầu tay.

Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên

biệt về truyện ngắn Hồng Nhu.

Cụ thể là:

Trên tạp chí Sông Hương, số 149, năm 2001, PGS.TS Hồ Thế

Hà có bài viết “Các nhà văn làm Tổng biên tập Tạp chí Sông

Hương”.

Năm 2002, trên báo Văn nghệ số 4, nhà văn Nguyễn Khắc Phê

đã có bài viết “Hồng Nhu tuổi hồi xuân”.

Trên tạp chí Sông Hương số 158, tháng 4 năm 2002 đăng bài

viết của Vọng Thảo với nhan đề “Hồng Nhu – ngọn gió chướng miệt

đầm” viết về tập truyện Lễ hội ăn mày.

Năm 2003, tập truyện ngắn Trà thiếu phụ ra đời đã gây tiếng

vang trong giới nghệ sĩ. Nhà thơ Võ Quê đã có những nhận định cho

tập truyện này. Cũng với tập truyện này, Nguyễn Thị Anh Đào đã

dành cho nhà văn những tình cảm chân thành qua bài viết “Chút tâm

tình với Trà thiếu phụ” đăng trên Tạp chí Sông Hương, số 178.

Năm 2005, truyện ngắn Vịt trời lông tía bay về đã được tuyển

chọn vào cuốn sách “Tổng tập truyện ngắn Việt Nam 1945 – 2005”.

Bùi Việt Thắng cũng dành cho Hồng Nhu những lời khen

ngợi khi đọc các truyện ngắn của ông trong bài “Đi trong mưa ngâu

cùng nhà văn Hồng Nhu” trên Tạp chí Sông Hương, số 217.

Năm 2010, trong bài viết “Hồng Nhu - nhà văn đầm phá”

trên Tạp chí Sông Hương, Mai Văn Hoan một lần nữa khẳng định

“Hồng Nhu còn là nhà văn viết về đời sống tâm linh của những

người dân ở vùng đầm phá ấn tượng nhất hiện nay”.

Ngoài những bài báo, bài phỏng vấn thì truyện ngắn Hồng

Nhu cũng đã có ba công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả:

- Nguyễn Lan Anh qua đề tài “Thế giới truyện ngắn Hồng

Nhu”, luận văn tốt nghiệp, năm 2001.

- TS. Lê Thị Hường nghiên cứu “Truyện ngắn Hồng Nhu từ

góc nhìn văn hóa” đăng trong cuốn Kỷ yếu hội thảo văn học Thừa

Thiên Huế lần 2, năm 2003.

- Nguyễn Thị Quỳnh Hương có bài báo cáo tổng kết đề tài

nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Yếu tố dân gian trong Vịt trời lông

tía bay về của Hồng Nhu”, năm 2011.

Chúng tôi ghi nhận, tham khảo và học hỏi những ý kiến trên,

đồng thời bổ sung và đi đến thực hiện đề tài “Nghệ thuật truyện

ngắn Hồng Nhu”.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Chúng tôi tìm hiểu qua hai tập truyện ngắn Vịt trời lông tía

bay về (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2006) và Hồng Nhu tuyển tập

(Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2011).

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi tập trung khảo sát các truyện

ngắn của nhà văn Hồng Nhu (thuộc cả hai giai đoạn trước và sau thời

kì đổi mới) để tìm ra những đặc điểm độc đáo về tư tưởng nội dung

(như cảm hứng sáng tác, thế giới nhân vật) và hình thức nghệ thuật (

đặc điểm cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu) trong các sáng tác của

nhà văn.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích - tổng hợp

- Phương pháp so sánh – đối chiếu

- Phương pháp tiếp cận văn hóa học

4. Đóng góp của luận văn

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ lục,

phần nội dung chính của luận văn gồm có ba chương như sau:

Chương 1: Hồng Nhu và sự nghiệp văn chương

Chương 2: Cảm quan về hiện thực và thế giới nhân vật trong

truyện ngắn Hồng Nhu

Chương 3: Đặc điểm cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu

truyện ngắn Hồng Nhu

Chương 1. HỒNG NHU VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG

1.1. Hồng Nhu – cuộc sống và duyên văn

1.1.1. Cuộc sống

Hồng Nhu tên thật là Trần Hồng Nhu, sinh ngày 1 – 12 –

1934 nhưng tuổi thật của ông là sinh vào năm Nhâm Thân (1932).

Nguyên quán ở làng Mỹ Lợi, xã Vinh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa

Thiên Huế. Hiện trú tại số nhà 12/1/1 Xuân Diệu - Huế.

1.1.2. Duyên văn

Trước khi đi bộ đội, Hồng Nhu cũng có viết nhưng chỉ viết

lăng nhăng cho vui. Nhưng cũng từ đây nhen nhóm trong ông lòng

say mê văn chương.

Trong thời gian đi bộ đội từ năm 1948 – 1961, ý định viết văn

lại đến với ông. Sau đó, vào năm 1956, khi Hồng Nhu ở nông trường

ông đã viết truyện Những người trên đồng cỏ. Truyện ngắn này sau

được giải III Văn nghệ quân đội năm 1958. Từ đó, duyên viết truyện

ngắn cứ theo đuổi ông dường như suốt cuộc đời.

Sau hơn 20 năm xa quê, năm 1987, ông quyết định rời xứ

Nghệ trở về quê hương. Và cái quyết định táo bạo đó đã đưa Hồng

Nhu đến với thơ khi tuổi không còn trẻ nữa.Với những đóng góp của

mình cho nền văn học Việt Nam hiện đại, Hồng Nhu đã xét tặng rất

nhiều giải thưởng của trung ương và địa phương. Năm 2012, ông

được giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật qua hai tập truyện

Trà thiếu phụ và Vịt trời lông tía bay về.

1.2. Quan niệm văn chương của Hồng Nhu

1.2.1. Quan niệm về nghề văn

Đối với Hồng Nhu, ông nghĩ rằng: “viết văn là một nghề

nghiệp. Đã là nghề nghiệp thì cần phải học tập không ngừng, rèn

giũa tay nghề không ngừng để sản phẩm mình làm ra ngày một đẹp

hơn, tốt hơn, có ích hơn. Vì vậy, tôi thường viết văn năm ba chọn lấy

một; tự mình sàng lọc mình…”. Qua đó cho ta thấy, nhà văn rất

nghiêm khắc với chính mình đồng thời cũng rất tôn trọng đọc giả.

Chính vì muốn tác phẩm của mình không để người đọc đọc một lần

rồi quên ngay sau đó nên Hồng Nhu có lần trình bày quan điểm của

mình “ Viết được non nửa, ông dừng lại, cảm thấy những trang viết

của mình sao mà nhạt nhẽo quá, bề ngoài quá. Ông xé bản thảo, viết

lại từ đầu. Ông thường có thói quen như thế, khi không vừa ý với tác

phẩm của mình, để bắt óc phải tìm tòi, khỏi lặp lại những giai điệu

ban đầu.”. Đọc tuyển tập truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu, chúng

ta tâm đắc cái lối hành xử trong sáng tác của ông: “Viết năm, ba nên

chọn lấy một”.

Có người cho rằng, viết văn là một trò chơi nghệ thuật nhưng

với Hồng Nhu, ông quan niệm viết văn là một cái nghề hẳn hoi. Bùi

Việt Thắng cũng đồng tình quan niệm này của Hồng Nhu “Tôi cũng

muốn đứng về phía nhà văn Hồng Nhu để “phản kích” lại cái quan

niệm văn chương chỉ là “một trò chơi vô tăm tích”, viết chỉ để thoả

mãn cái tôi như hũ nút của tác giả.”. Nhà văn Hồng Nhu cho rằng

“kĩ thuật của nghề viết truyện ngắn thì nhiều chuyện, nhưng không có

vốn sống, chất sống, cùng lòng yêu da diết mà người viết từng trải

qua, thì không thể nào bày ra được văn chương cựa quậy, có hồn

trên trang giấy.”.

Với những quan niệm như trên, Hồng Nhu được đánh giá là

nhà văn thuộc “khuynh hướng phong cách cổ điển” là bởi nhà văn

quan tâm đến các yếu tố ổn định và truyền thống của thể loại truyện

ngắn (cốt truyện tiêu biểu, tính cách sắc nét, chi tiết điển hình...)”.

1.2.2. Quan niệm về thiên chức của nhà văn

Trò chuyện với nhà văn Hồng Nhu, ông đã rất thân tình “Kinh

nghiệm viết văn thì khó có thể nói được bằng lời, nhưng thời gian

chú viết, chú vừa học vừa viết, vừa tự biên tập bài cho riêng mình,

nếu không bằng lòng là chú bỏ ngay truyện ngắn ấy, dẫu đã cất công

rất nhiều, trăn trở rất nhiều”. Qua tâm sự của ông, chúng ta có thể

thấy Hồng Nhu là một nhà văn có tinh thần trách nhiệm cao đối với

ngòi bút của mình. Ông muốn những tác phẩm viết ra phải có ích cho

cuộc sống.

Nhà văn hiểu rõ trách nhiệm của người cầm bút là phải tích lũy

vốn sống và tiếp cận những nghệ thuật mới mẻ để làm giàu thêm

ngòi bút của mình. Và nhà văn mong muốn đứa con tinh thần của

mình “ làm ra ngày một đẹp hơn, tốt hơn, có ích hơn” .

1.3. Sự nghiệp văn chương Hồng Nhu

1.3.1. Giai đoạn trước thời kì đổi mới

Chúng ta có thể kể những tác phẩm đã xuất bản trong giai

đoạn này như: Rừng thông cao vút ( ký, 1969), Ý nghĩ mùa thu (tập

truyện ngắn, 1971), Tiếng nói chìm sâu (tập truyện ngắn, 1976), Đêm

trầm (truyện ngắn, 1976), Gió đồi (truyện ngắn, 1978), Cây tâm hồn

trắng (tập truyện ngắn, 1984), Vẫn chuyện phiêu lưu (truyện thiếu

nhi, 1985), Hai giọt sương (truyện thiếu nhi, 1986).

1.3.2. Giai đoạn sau thời kì đổi mới

Hồng Nhu tiếp tục xuất bản các tác phẩm mang đậm hơi thở

của quê hương như : Ngẫu hứng về chiều (thơ, 1988), Nước mắt đàn

ông (thơ, 1992), Chiếc tàu cau (thơ, 1995), Thuyền đi trong mưa

ngâu (tập truyện ngắn, 1995), Rêu đá (thơ, 1998), Mưa gió đầy trời

(truyện ngắn, 1999), Lễ hội ăn mày (tập truyện ngắn, 2001), Trà thiếu

phụ (tập truyện ngắn, 2003), Vịt trời lông tía bay về (tuyển truyện,

2006), Chuyện một tình yêu (truyện ngắn, 2007), Đồi trở gió (tiểu

thuyết, 2008), Hồng Nhu tuyển tập (2011).

Hồng Nhu là nhà văn Huế dày dạn kinh nghiệm và vốn sống.

Đến cuối đời, ông đã nhận được phần thưởng lớn vì những cố gắng

không mệt mỏi: 2 tập truyện ngắn Vịt trời lông tía bay về và Trà

thiếu phụ được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Chương 2. CẢM HỨNG VỀ HIỆN THỰC VÀ THẾ GIỚI

NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN HỒNG NHU

2.1. Cảm hứng về hiện thực trong truyện ngắn Hồng Nhu

2.1.1. Cảm hứng về hiện thực cuộc sống khốc liệt của chiến tranh

Hồng Nhu viết về chiến tranh tuy không nhiều nhưng những

cảm hứng về cuộc chiến đã khơi nguồn cho mạch cảm xúc trong ông.

Một lẽ đơn giản nữa ông là người lính, đã từng vào sinh ra tử ở các

chiến trường, những kỉ niệm vui buồn ấy khiến ông không thể không

viết. Chiến tranh trong truyện ngắn Hồng Nhu cũng đủ mọi cung bậc

thông qua dòng ký ức của ông.

Trong mạch truyện của mình, Hồng Nhu thường kể về “những ngày

cuối cùng của cuộc chiến tranh ác liệt ở miền Bắc” hay cuộc chiến

chống Mỹ gian khổ với không gian rộng lớn, bao trùm, thời gian trải

dài như nhân lên nỗi đau. Có lẽ chỉ những người đã đi qua những trận

chiến thực sự mới miêu tả tỉ mỉ và chính xác đến vậy. Hồng Nhu đi

sâu vào những chi tiết đắt nhất giúp người đọc hình dung dễ dàng ra

cảnh tượng trước mắt. Ông đã nhìn thấy bộ mặt ghê gớm của chiến

tranh, những sự tàn phá không có gì sánh nổi. Tất cả mọi thứ đều trở

thành tro bụi, kể cả con người.

Số phận con người trong chiến tranh cũng thật bất hạnh. Cuộc

sống đối với họ ngắn ngủi, cái chết luôn cạnh kề bên mình. Cảm

quan về hiện thực chiến tranh được thể hiện trong các truyện Mùa

tôm, Gió thổi chéo mặt hồ, Đường viền của thành phố, Lưu lượng lớn

nhất của dòng chảy, Tiếng nói chìm sâu,… Quả thật, Hồng Nhu đã

biết đào sâu hiện thực chiến tranh bằng những trải nghiệm cá nhân để

làm phong phú thêm cái nhìn về hiện thực lịch sử. Ông dám nhìn

thẳng vào bộ mặt tàn khốc của chiến tranh, về những hiểm họa, di

chứng để lại sau chiến tranh. Chiến tranh đã qua đi rất lâu, thế hệ sau

chưa từng nếm trải nhưng thông qua những trang viết của nhà văn,

chúng ta như hiểu hơn về những gian khổ của cha anh đi trước. Đồng

thời, nhà văn đã dựng lại hình ảnh của những con người bằng sự chịu

đựng và sức mạnh đã vượt qua nỗi đau làm nên chiến thắng hôm nay.

2.1.2. Cảm hứng về hiện thực muôn màu của thời bình

Hòa nhập trong khí thế đổi mới của dân tộc, những tác phẩm

của Hồng Nhu cũng mang sắc thái mới, lấy cảm hứng từ thời bình

với việc sản xuất nông nghiệp (Cây tâm hồn, Sắc gió, Rì rào đồng

lúa, Mùa tôm), không khí làm việc hăng say, tích cực của những

người lao động (Lưu lượng lớn của dòng chảy, Thuyền đi trong mưa

ngâu), tình yêu và các mối quan hệ phức tạp của con người (Giếng

loạn, Láng giềng, Nhà, Trà thiếu phụ)…Cuộc sống vốn muôn màu,

muôn vẻ. Đây cũng là một đề tài vô cùng rộng lớn để các nhà văn

khai thác. Bởi cuộc sống con người rất phức tạp, đặc biệt là đời sống

nội tâm của các nhân vật. Nhà văn quan tâm đến cuộc sống của người

dân lao động, thông qua đó phát hiện ra bản chất tốt đẹp của con

người.

Lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động, Hồng Nhu đã xây dựng

nhân vật theo hướng tích cực, luôn phấn đấu hoàn thiện bản thân và

đấu tranh mạnh mẽ cho hạnh phúc. Trong những ngày đầu mới xây

dựng đất nước, nổi lên là những con người tích cực, luôn phấn đấu

hết mình cống hiến cho xã hội, không ngần ngại bất cứ việc gì dù khó

khăn, gian khổ.

Ngoài những cảm hứng trên thì những mối quan hệ phức tạp

của con người cũng được nhà văn khai thác triệt để như trong các

truyện Bao nhiêu là cát, Láng giềng, Nhà, Trà thiếu phụ…. Trong

thời bình, khi chiến tranh không còn là mối bận tâm của con người

nữa thì đời sống nội tâm lại được coi trọng. Không riêng gì tình yêu

mà tất cả những mối quan hệ, cách ứng xử giữa người với người trở

thành cảm hứng cho các nhà thơ, nhà văn. Hồng Nhu cũng tìm cho

mình những cái riêng trong vô vàn cái chung ấy.

Trong tất cả những truyện ngắn của ông, khi đọc lên ta thấy

phảng phất đâu đấy tiếng gọi của quê hương thân thương. Điều đó

cũng dễ hiểu vì bao nhiêu năm xa quê, Hồng Nhu luôn canh cánh

trong lòng. Thông qua các nhân vật, ông muốn bày tỏ nỗi lòng sâu

kín của mình như trong các tác phẩm Giếng loạn, Giao thừa, Lễ hội

ăn mày...

2.1.3. Cảm hứng về hiện thực văn hóa tâm linh của người dân đầm

phá

Khi khám phá thế giới truyện ngắn của Hồng Nhu, chúng ta

thấy nhà văn đã dành rất nhiều trang viết về đời sống của người dân

đầm phá Tam Giang. Không phải tự nhiên mà Mai Văn Hoan đánh

giá “Hồng Nhu còn là nhà văn viết về đời sống tâm linh của những

người dân ở vùng đầm phá ấn tượng nhất hiện nay.”.

Sinh ra và lớn lên ở vùng đầm phá nên những phong tục, lễ

nghi của chốn sông nước này đã ăn sâu vào tiềm thức của nhà văn.

Và trong các sáng tác của mình, Hồng Nhu đã tái hiện lại không gian

huyền bí, trang trọng ấy trong hàng loạt lễ nghi gắn bó mật thiết với

đời sống của người dân đầm phá. Người Việt có truyền thống thờ

ông bà, tổ tiên nên bất cứ việc gì từ ma chay, cưới hỏi đều thắp

hương cầu xin. Những người dân ở đầm phá cũng vậy nhưng họ còn

thờ thần Đầm, Thủy Vương Hà Bá.

Trong truyện ngắn Cổ tích làng, Hồng Nhu đã nhắc đến lễ

cúng cá voi trôi dạt vào bờ của người dân đầm phá. Đây là một lễ

cúng lớn và rất được coi trọng.

Đặc biệt, trong các truyện ngắn của Hồng Nhu nổi lên những

phong tục đậm chất đầm phá Tam Giang, không phải nơi nào cũng

có như tục bắt vợ. Ngoài ra, đời sống tâm linh của người dân đầm

phá còn được Hồng Nhu phác họa qua các lễ nghi như lễ nhập vạn

đò rồi lễ hợp cẩn, lễ Thần Đầm, lễ cầu ngư và lễ hạ thủy.

Thông qua những phong tục, lễ hội, Hồng Nhu khắc họa rõ

nét không gian mênh mông của vùng đầm phá Tam Giang. Nhà văn

đã tái hiện những phong tục, lễ hội ấy khá tỉ mỉ, chi tiết trong từng

truyện ngắn, tạo nên một không gian huyền bí và đặc trưng của

người dân đầm phá. Do đó, chúng ta không thể không ghi nhận sự

đóng góp của ông trong việc giữ gìn và quảng bá những nét văn hóa

độc đáo của vùng đầm phá.

2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Hồng Nhu

2.2.1. Những con người vượt khó để tồn sinh

Truyện ngắn Hồng Nhu đã thể hiện rất nhiều mặt của cuộc

sống, trong đó có những khó khăn, gian nan buộc nhân vật phải biết

chấp nhận để vươn lên. Đó là Hồi và vợ trong truyện Thuyền đi trong

mưa ngâu, Túc và Thao trong Dốc vui, Vũ trong Lưu lượng lớn nhất

của dòng chảy, Hạ trong Sắc gió, anh thương binh trong Ngoại

thành, Lệ trong Giếng loạn, Miên trong Ai đi về đâu chiều tối, Uyên

trong Người không bao giờ tắm biển, o Giêng trong Người ở…

Hồng Nhu đã rất thành công trong việc xây dựng con người

mới. Hồi và vợ của anh trong truyện Thuyền đi trong mưa ngâu là hai

người hăng say, luôn cố gắng hết mình vì công việc. Vũ là một kỹ sư

giàu tinh thần trách nhiệm. Anh tiêu biểu cho người lính luôn phấn

đấu cho sự nghiệp dân tộc. Để cải tiến lò than cho năng suất cao, cả

Túc và Thao đã phải vắt óc suy nghĩ. Mỗi người mỗi công việc khác

nhau, Túc lo việc khai thác than ở trong hầm còn Thao vận chuyển

than ra khỏi hầm.

Không chỉ biết vượt qua những thách thức trong cuộc sống, họ

còn biết vượt qua những đau đơn về thể xác và tinh thần. Uyên trong

truyện Người không bao giờ tắm biển và O Giêng trong truyện Người

ở là những người như thế. Trong tình yêu, con người cũng phải luôn

đấu tranh để giành lấy hạnh phúc cho chính mình. Hai nhân vật Lệ và

Giành trong truyện Giếng loạn là minh chứng cho điều đó. Cuộc

sống của con người vốn không như mong muốn. Không có ai hoàn

thiện, hạnh phúc và may mắn suốt đời được. Trước bao nhiêu khó

khăn của cuộc sống, con người phải tự mình giành lấy. Những nhân

vật trong truyện ngắn Hồng Nhu đã cho chúng ta những bài học quí.

Hạnh phúc hay khổ đau không phải do thiên mệnh, chúng ta có thể

thay đổi cuộc đời của mình bằng sự nỗ lực, cố gắng của chính mình.

2.2.2. Những con người quả cảm, đầy tình nghĩa

Trong những tác phẩm viết trước thời kì đổi mới, các nhân vật

điển hình thường là những con người dũng cảm trong chiến đấu và

giàu tinh thần trách nhiệm trong lao động. Họ cũng là những người

có tấm lòng nhân hậu, đầy tình nghĩa. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi

những tính cách ấy là truyền thống của người dân Việt Nam. Nó đã

ăn sâu vào máu thịt của nhân dân ta nên khi Hồng Nhu tái hiện lại

trong truyện của ông một cách nghệ thuật là một cảm thức tái sinh rất

xúc động, có ý nghĩa nhận thức cao.

Hai truyện ngắn Tiếng nói chìm sâu và Đường viền của thành

phố đều kể về cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ của nhân dân ta.

Đó là những con người không biết sợ cái chết. Họ chỉ mong sao hoàn

thành nhiệm vụ, góp một phần công sức nhỏ bé của mình cho đất

nước như trong các truyện ngắn Mùa tôm, Những giọt mưa, Vịt trời

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!