Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Ngân hàng và công tác cho vay đầu tư. Nâng cao chất lượng và số lượng bộ phận thẩm định docx
MIỄN PHÍ
Số trang
81
Kích thước
423.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1061

Ngân hàng và công tác cho vay đầu tư. Nâng cao chất lượng và số lượng bộ phận thẩm định docx

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Lời nói đầu.

Trong năm qua, tuy phải đương đầu với những khó khăn thách thức nhưng đất

nước ta đã giành được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện, giữ vững ổn

định kinh tế chính trị - xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế hàng đầu đều đạt và

vượt kế hoạch, trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng đất nước được giữ vững.

Tình hình hoạt động tiền tệ Ngân hàng có nhiều biến chuyển tích cực mặc dù phải

chịu tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất lợi trong nước cũng như trên thế

giới.

Cùng với xu thế này, trong những năm vừa qua , NHCT Đống Đa đã được đánh

giá là một trong những Ngân hàng đã có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đổi mới

của ngành, cơ cấu tổ chức Ngân hàng được hoàn thiện hơn. Là một Ngân hàng

thương mại, NHCT Đống Đa thực hiện rất nhiều nghiệp vụ, trong đó nghiệp vụ

duy trì sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu là huy động vốn trung dài

hạn để cho vay dự án đầu tư phát triển, nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án

thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, kinh doanh tiền tệ tín dụng. Bên cạnh những

thành công đã đạt được trong hoạt động cho vay tín dụng trung dài hạn các dự án

đầu tư, Ngân hàng còn gặp không ít khó khăn và nhiều rủi ro. Chính vì vậy, để

đảm bảo hiệu quả và an toàn cho vay đòi hỏi phải tích cực nâng cao chất lượng

công tác thẩm định trước cho vay, đặc biệt là cho vay dự án đầu tư. Hoạt động

thẩm định dự án đầu tư đang thực sự đóng vai trò quan trọng. Mục tiêu đặt ra của

NHCT Đống Đa trong năm tới là tiếp tục mở rộng hình thức tín dụng này.

Từ thực tế như vậy, với mong muốn góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển của

Ngân hàng – nơi cá nhân thực tập, em lựa chọn đề tài :

“Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi

nhánh NHCT Đống Đa” làm chuyên đề tốt nghiệp.

Chuyên đề gồm 3 chương cơ bản :

Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư

Chương III : Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu

tư tại chi nhánh NHCT Đống Đa

Do hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tế cũng như tài liệu sử dụng nên nội

dung chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến

đóng góp bổ ích của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng để đề tài ngày càng

hoàn thiện hơn.

Em xin trân trọng cảm ơn!

Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư.

1.1. Khái niệm về đầu tư và dự án đầu tư

1.1.1 . Đầu tư

a. Khái niệm đầu tư.

Hoạt động đầu tư (gọi tắt là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực tài chính,

lao động , tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc

gián tiếp tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của

nền kinh tế nói chung, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ của ngành, cơ quan

quản lý và xã hội nói riêng.Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư trực tiếp và gián tiếp.

Hoạt động đầu tư gián tiếp là hoạt động bỏ vốn trong đó người đầu tư không trực

tiếp tham gia điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra.

Hoạt động đầu tư trực tiếp là hoạt động trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia

điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chia ra thành 2 loại đầu tư chuyển dịch

và đầu tư phát triển. Trong đó:

- Nâng cấp các hoạt động đó vì mục tiêu phát triển thực chất. Nó tạo ra của

cải vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm Đầu tư chuyển dịch là

hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư bỏ tiền để mua lại một số lượng đủ lớn cổ phiếu

của một doanh nghiệp nhằm tham gia nắm quyền điều hành hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp đó.

- Đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn nhằm gia tăng giá trị tài sản, tạo ra

những năng lực sản xuất , phục vụ mới bao gồm: xây dựng các công trình mới, các

hoạt động dịch vụ mới, cải tạo mở rộng cải thiện đời sống người lao động.

Có thể nói đầu tư phát triển đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong nhiều

năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu tư khá lớn

và vốn nằm đọng trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu tư(viết tắt là DAĐT).

Các thành quả của loại đầu tư này cần được sử dụng trong nhiều năm, đủ để các lợi

ích thu được tương ứng và lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra. Chỉ có như vậy thì

công cuộc đầu tư mới được coi là có hiệu quả.

b. Đặc trưng của đầu tư

Để làm rõ hơn nội dung của khái niệm hoạt động đầu tư, chúng ta đi sâu phân tích

các đặc trưng cơ bản của hoạt động này:

- Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước hết

là quyết định tài chính.

Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi. Dưới các hình thức khác nhau nhưng

vốn có thể xác định dưới hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết định đầu tư thường

được xem xét trên phương diện tài chính (khả năng sinh lời, tổn phí, có khả năng

thu hồi được hay không…). Trên thực tế, các quyết định đầu tư cân nhắc bởi sự

hạn chế của ngân sách nhà nước, địa phương, cá nhân và được xem xét từ các khía

cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có khả thi ở các phương diện khác (kinh tế –

xã hội) nhưng không khả thi về phương diện tài chính vì thế cũng không thể thực

hiện được trên thực tế.

- Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài.

Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác, đầu tư

luôn là hoạt động có tính chất lâu dài. Do đó, mọi sự trù liệu đều là dự tính và chịu

một xác suất biến đổi nhất định do nhiều nhân tố biến đổi tác động. Chính điều này

là một trong những vấn đề then chốt phải tính đến trong nội dung phân tích, đánh

giá của quá trình thẩm định dự án.

- Hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi

ích trước mắt và lợi ích trong tương lai.

Đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy sinh lợi ích hiện tại để đánh đổi lấy lợi

ích trong tương lai. Vì vậy, luôn có sự so sánh cân nhắc giữa hai loại lợi ích này và

nhà đầu tư chỉ chấp nhận trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn

lợi ích hiện này họ phải hy sinh - đó là chi phí cơ hội của nhà đầu tư.

- Hoạt động đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro.

Các đặc trưng nói trên đã cho ta thấy đầu tư là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi

ro do chịu xác suất nhất định của yếu tố kinh tế – chính trị – xã hội – tài nguyên

thiên nhiên…Bản chất của sự đánh đổi lợi ích và lại thực hiện trong một thời gian

dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá

trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Tuy nhiên, nhận thức rõ điều này nên nhà đầu

tư cũng có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi

ro là ít nhất.

Những đặc trưng nói trên cũng đặt ra cho người phân tích, đánh giá dự án chẳng

những quan tâm về mặt nội dung xem xét mà còn tìm các phương pháp, cách thức

đo lường, đánh giá để có những kết luận giúp cho việc lựa chọn và ra quyết định

đầu tư một cách có căn cứ.

c. Vai trò của đầu tư.

Từ sau Đại hội Đảng lần VI, với chủ trương chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung

quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã có những

tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, tỉ lệ lạm phát dừng lại ở

mức thấp, đặt biệt kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng…cùng với sự chuyển mình

của đất nước cũng như việc thực hiện đa dạng, đa phương hoá các phương thức sản

xuất kinh doanh đã làm cho chúng ta hoà nhập hơn, thân thiện hơn với bạn bè quốc

tế. Theo đó, tư duy về kinh tế của mỗi người dân đều thay đổi. Chính vì vậy mà

người ta đã biết đến đầu tư như là một yếu tố quan trọng cần thiết. Hay nói khác đi,

đầu tư cũng giống như một chiếc chìa khoá để chiến thắng trong cạnh tranh sinh

tồn.

Tăng trưởng và phát triển bền vững là phương hướng, mục tiêu phấn đấu của mọi

quốc gia. Để đạt được điều đó cần quan tâm giải quyết các nhân tố ảnh hưởng đến

sự tăng trưởng là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ. Thông qua hoạt

động đầu tư, các yếu tố đó sẽ được khai thác, huy động và phát huy một cách tối đa

để từ đó tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực mới cho sự tăng trưởng và phát

triển kinh tế.

Đối với nền kinh tế, đầu tư có tác động rất lớn đến tổng cung và tổng cầu. Do đầu

tư tác động không hoàn toàn phù hợp về mặt thời gian đối với nhịp độ phát triển

nên mỗi sự thay đổi tăng hoặc giảm của đầu tư đều cùng lúc vừa là yếu tố duy trì

sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế.

Với những nước có tỉ lệ đầu tư lớn thì tốc độ tăng trưởng cao. Ngược lại khi tỉ lệ

đầu tư càng thấp thì tốc độ tăng trưởng và mức độ tích luỹ càng thấp. Trong nền

kinh tế quốc dân, để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý thì vấn đề đầu tiên có tính

chất then chốt là phải thực hiện đầu tư và phân bổ vốn một cách hợp lý. Có như

vậy mới tạo ra được sự dịch chuyển về cơ cấu do mỗi ngành, mỗi thành phần kinh

tế đều có thế lực và tiềm năng riêng. Ngoài ra, kinh nghiệm của các nơi trên thế

giới cho thấy con đường tất yếu để có thể phát triển nhanh là tăng cường đầu tư

vào phát triển khu công nghiệp thương mại du lịch và dịch vụ.

Đối với một doanh nghiệp thì đầu tư cũng đóng vai trò quyết định đến sự tồn vong

và phát triển. Trong nền kinh tế hiện nay, doanh nghiệp được coi là các tế bào chủ

yếu nhất cho sự phát triển chung. Để thành lập nên một doanh nghiệp thì điều đầu

tiên là phải có vốn đầu tư. Nó là một trong những yếu tố thiết yếu để có thể tạo

dựng nên nền móng cơ sở vật chất ban đầu cho doanh nghiệp. Ngay cả sau khi

doanh nghiệp đã được thành lập thì việc phát triển hay lụi tàn đến mức nào đó

cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu tư.

1.1.2. Dự án đầu tư.

a. Khái niệm dự án đầu tư (DAĐT)

Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì “DAĐT là một tập hợp các

hoạt động đặc thù nhằm tạo nên một thực tế mới có phương pháp trên cơ sở các

nguồn lực nhất định”.

ở Việt Nam, khái niệm DAĐT được trình bày trong nghị định 52/1999 NĐ-CP về

quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản: “ DAĐT là tập hợp các đề xuất có liên

quan tới việc bỏ vốn để tạo vốn, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất

định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao

chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thơì gian nhất định”.

• Về mặt hình thức: DAĐT là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi

tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết

quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.

• Về mặt nội dung: DAĐT là một tập hợp các hoạt động có liên quan với

nhau nhằm đạt được những mục đích đã đề ra thông qua nguồn lực đã xác định

như vấn đề thị trường, sản phẩm, công nghệ, kinh tế , tài chính…

Vậy, DAĐT phải nhằm việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào để thu được

đầu ra phù hợp với những mục tiêu cụ thể. Đầu vào là lao động, nguyên vật liệu,

đất đai, tiền vốn… Đầu ra là các sản phẩm dịch vụ hoặc là sự giảm bớt đầu vào. Sử

dụng đầu vào được hiểu là sử dụng các giải pháp kỹ thuật công nghệ, biện pháp tổ

chức quản trị và các luật lệ…

Dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì DAĐT cũng gồm những thành phần chính

sau:

+ Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án: Khi thực hiện dự án, sẽ mang lại

những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho chủ đầu tư nói riêng.

+ Các kết quả: Đó là những kết quả có định lượng được tạo ra từ các hoạt động

khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu của dự

án.

+ Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án

để tạo ra các kết quả nhất định, cùng với một lịch biểu và trách nhiệm của các bộ

phận sẽ được tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.

+ Các nguồn lực: Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các

nguồn lực về vật chất, tài chính và con người. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn

lực này chính là vốn đầu tư cho các dự án.

+ Thời gian: Độ dài thực hiện DAĐT cần được cố định.

DAĐT được xây dựng phát triển bởi một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Các giai

đoạn này vừa có mối quan hệ gắn bó vừa độc lập tương đối với nhau tạo thành chu

trình của dự án. Chu trình của dự án được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn chuẩn

bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn vận hành kết quả. Giai đoạn

chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề quyết định sự thành công hay thất bại ở giai đoạn sau,

đặc biệt đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.

Đối với chủ đầu tư và nhà tài trợ, việc xem xét đánh giá các giai đoạn của chu trình

dự án là rất quan trọng. Nhưng đứng ở các góc độ khác nhau, mỗi người có mối

quan tâm và xem xét các giai đoạn và chu trình cũng khác nhau. Chủ đầu tư phải

nắm vững ba giai đoạn, thực hiện đúng trình tự. Đó là điều kiện để đảm bảo đầu tư

đúng cơ hội và có hiệu quả.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!