Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khảo sát truyện kể dân gian Tày Nùng xứ Lạng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ TÂN HƢƠNG
KHẢO SÁT TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY- NÙNG XỨ LẠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ TÂN HƢƠNG
KHẢO SÁT TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY- NÙNG XỨ LẠNG
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Huế
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Huếngười thầy đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Em xin cảm ơn quý thầy, cô tổ Văn học dân gian, Ban chủ nhiệm Khoa
Ngữ văn, Bộ phận quản lý Khoa học- Sau đại học trường Đại học sư phạm
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các cô chú, anh chị ở Thư viện tỉnh Lạng
Sơn, ở Phòng Văn hoá, thư viện huyện Bình Gia cùng những người dân Tày,
Nùng ở Bình Gia- Lạng Sơn đã nhiệt tình cung cấp những tư liệu quý báu để
giúp em hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục và Đào tạo Lạng Sơn,
trường THPT Bình Gia, bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia
đình đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho em trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy cô giáo đã đọc và chỉ rõ những
thành công cũng như hạn chế trong luận văn tốt nghiệp này.
Thái Nguyên, ngày.....tháng....năm 2012
Tác giả
Nguyễn Thị Tân Hƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nxb : Nhà xuất bản
KHXH : Khoa học xã hội
H : Hà Nội
TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
PGS : Phó giáo sư
TS : Tiến sĩ
VHTT&DL : Văn hoá thể thao và du lịch
[X; Y] : Tài liệu tham khảo
X : Số thứ tự tài liệu tham khảo
Y : Trang tài liệu tham khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố ở bất kì công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Tân Hƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục................................................................................................................i
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 10
Chƣơng 1. VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI XỨ LẠNG VỚI SỰ HÌNH
THÀNH, TỒN TẠI VÀ LƢU TRUYỀN TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
TÀY - NÙNG .................................................................................................. 10
1.1. Vùng đất, con người xứ Lạng ................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm xứ Lạng ........................................................................... 10
1.1.2. Về điều kiện tự nhiên........................................................................ 12
1.1.3. Về điều kiện xã hội và lịch sử tộc người Tày- Nùng xứ Lạng ........ 15
1.2. Văn hóa, văn học dân gian dân tộc Tày –Nùng xứ Lạng........................ 26
1.2.1. Văn hóa, văn học dân gian xứ Lạng nói chung ................................ 26
1.2.2. Văn hóa, văn học dân gian dân tộc Tày – Nùng xứ Lạng: .............. 28
Chƣơng 2. CÁC THỂ LOẠI TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY – NÙNG
XỨ LẠNG ....................................................................................................... 34
2.1. Khái niệm truyện kể dân gian ................................................................. 34
2.2. Hiện trạng nguồn truyện kể Tày- Nùng xứ Lạng.................................... 34
2.3. Phân loại.................................................................................................. 35
2.4. Một số thể loại truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng......................... 39
2.4.1. Thần thoại Tày- Nùng xứ Lạng ....................................................... 40
2.4.2. Truyền thuyết Tày- Nùng xứ Lạng................................................... 45
2.4.3. Truyện cổ tích Tày- Nùng xứ Lạng .................................................. 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ii
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN KỂ DÂN GIAN TÀY - NÙNG XỨ
LẠNG TRÊN MỘT SỐ BÌNH DIỆN.......................................................... 65
3.1. Về nhân vật, môtíp .................................................................................. 65
3.1.1. Nhân vật............................................................................................ 65
3.1.2. Một số môtif trong truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng ............ 79
3.2. Sự đồng dạng và tính dị biệt trong truyện kể dân gian Tày, Nùng xứ Lạng ..... 87
3.2.1. Sự đồng dạng .................................................................................... 87
3.2.2. Tính dị biệt........................................................................................ 92
3.3. Truyện kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng với tín ngưỡng và lễ hội......... 97
3.3.1. Tín ngưỡng tiêu biểu......................................................................... 99
3.3.2. Một số lễ hội liên quan. .................................................................. 102
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do xã hội
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Bên cạnh tộc người Kinh(Việt) là
tộc người đa số, nước ta còn có năm mươi ba dân tộc anh em khác cùng
chung sống, gắn bó như Tày, H’Mông, Dao, Thái....Do vậy, Việt Nam có
nhiều ngữ hệ và bản sắc văn hoá tộc người khác nhau. Trải qua nhiều thế kỷ,
cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống, kiên cường, ý chí để giữ
gìn từng thước đất của quê hương, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc yêu dấu. Trong
quá trình đó, Việt Nam đã hình thành một cộng đồng văn hoá vừa thống nhất,
vừa đa dạng. Mỗi một tộc người anh em lại có nghĩa vụ giữ gìn và phát triển bản
sắc, phát huy phong tục tập quán, vốn văn nghệ truyền thống của tộc người mình
Nằm trong dải đất địa đầu của Tổ quốc Việt Nam, xứ Lạng (Lạng Sơn)
là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em và cũng là vùng đất có người Tày –
Nùng cư trú đông nhất cả nước. Trong cộng đồng các tộc người Việt Nam,
người Tày, Nùng có số dân đông thứ hai sau người Việt (Kinh). Nhiều nghiên
cứu khoa học từ trước đến nay đã khẳng định người Tày- Nùng có vốn văn
hóa văn học dân gian chỉ phát triển sau người Kinh (Việt).
Chính vì vậy việc tìm hiểu văn học dân gian xứ Lạng đặc biệt là văn học
dân gian của người Tày- Nùng chính là để tăng cường sự hiểu biết về vốn văn
hóa dân gian của hai tộc người này, đồng thời để tăng cường sự tin cậy, đoàn
kết giữa các tộc người anh em là một việc có ý nghĩa lớn lao và dài lâu đối
với sự nghiệp xây dựng một đất nước Việt Nam giàu đẹp và văn minh, một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn thế, xứ Lạng
không chỉ là vùng đất giàu giá trị văn hóa mà còn là vùng đất cửa ngõ của
giao thương quốc tế quan trọng, văn hóa thương nhân đang dần lấn át đi văn
hóa truyền thống. Những giá trị cội nguồn đang dần bị mất đi bởi cuộc sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
mưu sinh cơm áo gạo tiền. Vì vậy, đang đặt ra những vấn đề cấp thiết và
mang tính thời sự trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Việc khai
thác, giữ gìn và phát huy nguồn mạch văn hóa dân tộc- văn học dân gian của
xứ Lạng - chính là một việc làm thiết thực để giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc Việt Nam.
1.2. Lý do nghệ thuật
1.2.1. Trải qua nhiều thế kỷ, trong quá trình lao động sản xuất và đấu
tranh xã hội, dân tộc Tày, Nùng nói chung và người Tày, Nùng ở xứ Lạng nói
riêng đã xây dựng cho mình một kho tàng văn học dân gian truyền thống
mang đậm bản sắc văn hóa tộc người, nhưng cũng không phá vỡ tính thống
nhất chung của văn hóa Việt Nam. Nói cách khác văn học dân gian của tộc
người Tày –Nùng ở xứ Lạng với những nét đặc sắc riêng đã góp phần làm nên
bộ mặt phong phú, đa dạng nhưng thống nhất chung của văn học dân gian
Việt Nam.
1.2.2. Truyện kể dân gian Việt Nam nói chung và truyện kể dân gian các
dân tộc thiểu số nói riêng đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học xã hội và nhân văn trong đó có khoa học văn học dân gian. Việc nghiên
cứu truyện kể nói chung và truyện kể xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng nói
riêng có thể nói là một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng.
1.2.3. Việc chú trọng khai thác những di sản văn học của các dân tộc ít
người cùng với nhiệm vụ nghiên cứu, khai thác những di sản văn học quý báu
của dân tộc Kinh chính là việc góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng
nền văn hóa mới Xã hội chủ nghĩa ở một quốc gia đa dân tộc với nền văn hóa
“Thống nhất trong đa dạng”.
Xứ Lạng là một trong những cái nôi của văn hoá dân gian Tày, Nùng. Ở
đó hội tụ đầy đủ các loại hình văn học dân gian trong đó có truyện kể dân gian
là một di sản vô cùng phong phú, quý giá. Nó được xem là thể loại ổn định,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
phản ánh rõ nét đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và bản sắc con
người nơi đây. Nó vừa mang tính loại hình vừa mang tính đặc thù chưa từng
được nghiên cứu một cách hệ thống .
Hơn nữa hiện nay việc nghiên cứu học tập văn học dân gian địa
phương vào chương trình phổ thông vẫn chưa được chú trọng. Là giáo viên
THPT, tôi nghĩ nghiên cứu về truyện kể dân gian xứ Lạng của dân tộc TàyNùng là một việc làm cần thiết để gìn giữ di sản phi vật thể của dân tộc Việt
Nam nói chung và của dân tộc Tày- Nùng ở xứ Lạng nói riêng.
Chính vì những lẽ trên và trên cơ sở tiếp tục kế thừa thành tựu của các
nhà nghiên cứu, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Khảo sát truyện kể dân
gian Tày- Nùng xứ Lạng với mong muốn đóng góp ý kiến của mình vào
công cuộc nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc ít người hiện nay đặc biệt
là thể loại truyện kể. Đồng thời cũng là người công tác và gắn bó với bà con
dân tộc Tày- Nùng một thời gian dài, tôi muốn góp tiếng nói tri ân của mình
với vùng đất, con người xứ Lạng. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng bài
giảng trong nhà trường và làm tài liệu cho những người quan tâm đến truyện cổ
Việt Nam nói chung và truyện kể xứ Lạng của dân tộc Tày- Nùng nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện kể dân gian thuộc
loại hình tự sự bằng văn xuôi dân gian bao gồm các thể loại: Thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười và giai thoại. Theo
tài liệu mà chúng tôi thu thập được, việc sưu tầm và tìm hiểu thể loại truyện
cổ dân gian Việt Nam đã được các học giả quan tâm và tiến hành nghiên cứu
từ khá sớm.
Truyện cổ dân gian, hơn mọi thể loại khác có một sức hấp dẫn kì lạ và
vốn có một đời sống học thuật phong phú và sớm hơn rất nhiều so với các thể
loại khác của văn học dân gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
2.1. Trong công trình “ Tổng tập văn học dân gian người Việt” do GS.TS
Kiều Thu Hoạch chủ biên, các tác giả đã chỉ ra rằng “Truyện cổ dân gian Việt
Nam vốn được ghi chép, sưu tầm từ rất sớm trong các tác phẩm khởi đầu của
nền văn học như Báo cực truyện, Giao Chỉ Kí (Thế kỷ XII), Việt điện u linh
của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (Thế kỉ
XIV-XV); rồi những tập như Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Thiên Nam vân
lục (Nguyễn Hành), Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề), Truyền kì tân phả
(Đoàn Thị Điểm), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Tang thương ngẫu lục
(Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án)...
Vào những thế kỷ sau như thế kỷ XIX và thời kỳ cận đại của thế kỷ
XX, việc sưu tầm, biên soạn truyện cổ dân gian ngày càng được nhiều người
chú trọng. Cuối thể kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã có nhiều bộ sưu tập truyện cổ
ra đời do các văn sĩ có ý thức lưu tâm đến vốn văn học cổ truyền của nước
nhà đã ghi chép và xuất bản như Chuyện khôi hài (1882), Chuyện đời xưa
(1886) của Trương Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn (1880: tập 1, 1885: tập 2) của
Huỳnh Tịnh Của, Nam Hải dị nhân (1920) của Phan Kế Bính, Truyện cổ nước
Nam (1932-1934) của Nguyễn Văn Ngọc v. v...
Từ sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt từ những năm 50 của thế kỷ XX,
vốn văn hóa dân gian nói chung và truyện cổ dân gian nói riêng lại càng được
coi trọng và việc sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu chúng được xem như những
hoạt động khoa học, một ngành khoa học độc lập, được nâng lên ở một cấp độ
mới. Kết quả của ngành nghiên cứu văn học dân gian và truyện cổ dân gian đã
đạt được là những kết quả khả quan, với một loạt công trình có tầm cỡ ra đời liên
tiếp như: Truyện cổ tích Việt Nam (1955) của Vũ Ngọc Phan, Lược khảo về thần
thoại Việt Nam (1956) của Nguyễn Đổng Chi, Lược thảo lịch sử văn học Việt
Nam (1957) của Nguyễn Đổng Chi, Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong v.v...
2.2. Cùng với văn học dân gian của người Kinh, bộ phận văn học dân gian
của người Tày, Nùng- cư dân bản địa và là chủ thể ở vùng Đông Bắc (Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Bắc) với bản sắc riêng của một tộc người miền núi, đã góp phần làm nên bộ
mặt phong phú đa dạng của văn học dân gian Việt Nam... Tuy nhiên, việc
nghiên cứu văn học dân gian Tày- Nùng đến thời điểm này vẫn còn nhiều
khoảng trống. Ngoài một số công trình sưu tầm và giới thiệu văn bản truyện
kể như Truyện kể Việt Bắc (1963), Truyện cổ Tày- Nùng (1974), Truyện cổ
các dân tộc ít người Việt Nam (1978), Truyện cổ Bắc Kạn (2000)... thì các
công trình chuyên biệt về truyện kể dân gian Tày- Nùng lại có phần ít ỏi, chỉ
có vài ba công trình. Cụ thể như Sưu tập và khảo cứu truyện cổ Tày của hai
tác giả Vũ Anh Tuấn và Vi Hồng (tài liệu đánh máy 257 trang- Khoa ngữ văn
Đại học sư phạm Thái Nguyên). Tìm hiểu một cặp mẫu kể dân gian miền núi
dưới góc độ loại hình của tác giả Vũ Anh Tuấn (Tạp chí Văn học số 4- 1991),
Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số típ truyện kể dân gian Tày vùng Đông
Bắc Việt Nam của tác giả Vũ Anh Tuấn (Luận án PTS- 1991), Tìm hiểu quan
niệm về cái đẹp và nghệ thuật trong văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam của Hoàng Minh Lường (Luận văn Thạc sĩ Đại học sư phạm Hà Nội
1987-71 trang), Truyện thơ Nôm Tày- Đặc điểm nổi bật trong văn hóa dân
gian và văn hóa Tày của Hà Thị Bích Hiền (Luận văn Thạc sĩ Đại học sư
phạm Hà Nội 2000-98 trang). Hiện tượng vượt biển (Khảm Hải) trong đời
sống văn hóa dân gian Tày của Nguyễn Thị Nhin (Luận văn Thạc sĩ Đại học
sư phạm Hà Nội 2003- 100 trang), Khảo sát và so sánh một số típ truyện kể
dân gian Tày- Việt của Lương Anh Thiết (Luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm
Thái Nguyên 2003- 122 trang), Khảo sát những đặc điểm truyền thuyết của
người Tày ở Bắc Kạn của Mai Thu Thuỷ (Luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm
Hà Nội 2005- 100 trang)....
2.3. Người Tày- Nùng là chủ thể văn hoá chính ở xứ Lạng. Văn hoá, văn
học dân gian của tộc người Tày- Nùng xứ Lạng là mảnh đất ẩn tàng những
“nguồn lợi” quý giá đòi hỏi phải có sự nhọc công tìm hiểu. Nghiên cứu về văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
học dân gian đặc biệt là khảo sát diện mạo chính của truyện kể dân gian TàyNùng xứ Lạng cho đến thời điểm này theo khảo sát của chúng tôi thì chưa có
một công trình chuyên biệt nào. Chỉ có một số công trình nhỏ, lẻ riêng biệt về
văn học dân gian như công trình Đặc điểm dân ca đám cưới Tày, Nùng xứ
Lạng của Lộc Bích Kiệm (Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn 2004- 138 trang),
giới thiệu Truyện kể Tày, Nùng xứ Lạng của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn
(Chủ biên), Phạm Nguyên Long, Lâm Mai Lan... trong công trình Địa chí
Lạng Sơn- Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội- 1999), Bước đầu tìm hiểu
thơ ca dân gian của người Tày, Nùng xứ Lạng của tác giả Thái Vân (Tạp chí
văn học số 11- 1996) ...
Tôi không có tham vọng là luận văn sẽ bao quát được hết vẻ đẹp lấp lánh
của văn hóa dân tộc Tày –Nùng, đời sống tâm tư, tình cảm mà đồng bào gửi
gắm trong kho tàng truyện kể xứ Lạng. Nhưng kế thừa các nghiên cứu đi
trước, đề tài của chúng tôi hy vọng bước đầu giải quyết được những vấn đề cụ
thể của truyện kể xứ Lạng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn của chúng tôi có tên là Khảo sát truyện kể dân gian
Tày -Nùng xứ Lạng. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi sẽ là truyện
kể dân gian Tày- Nùng xứ Lạng đã được sưu tầm, biên soạn và xuất bản.
Tài liệu chúng tôi chọn làm tài liệu khảo sát chính là tập Truyện cổ xứ
Lạng của dân tộc Tày và Nùng do Nguyễn Duy Bắc, Hoàng An, Hoàng Tuấn
Cư, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997. Cùng
với một số truyện sưu tầm trong công trình Lễ hội dân gian Lạng Sơn của
Hoàng Páo, Hà Văn Thanh, Bế Kim Loan, Vũ Kiều Oanh, Sở văn hoá thông
tin Lạng Sơn sưu tầm, giới thiệu và một số truyện trong Ai lên xứ Lạng của
Hà Văn Thư, Hoàng Nam, Vi Hồng Nhân, Vương Toàn, NXB Văn hoá dân
tộc, Hà Nội, 1994.