Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH
TRẦN MẠNH HÙNG
Chuyeân
LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ NGÖÕ VAÊN
NGÖÔØI HÖÔÙNGHOA HOÏC
Thaønh phoá Hoà Chí Minh – 2011
2
BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH
TRẦN MẠNH HÙNG
Chuyeân ngaønh : Vaên hoïc Vieät Nam
Maõ soá : 62 22 34 01
LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ NGÖÕ VAÊN
NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC:
PGS.TS. PHUØNG QUYÙ NHAÂM
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau ngày miền Nam đƣợc hoàn toàn giải phóng, đất nƣớc bƣớc sang
một giai đoạn lịch sử mới. Văn học cả nƣớc nói chung, văn học đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng cũng có sự vận động và phát triển, kịp
thời phản ánh đời sống xã hội trƣớc yêu cầu mới của thời đại.
1.2. Truyện ngắn ĐBSCL gắn liền với nhiều nhà văn đƣợc ngƣời đọc
mến mộ nhƣ: Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,…và
gần đây là Nguyễn Ngọc Tƣ. Họ viết hết mình về vùng đất nơi họ sinh ra, lớn
lên và trải nghiệm suốt cả cuộc đời từ nhiều góc độ, phƣơng diện cảm nhận
cũng nhƣ cách thể hiện.
Thật sự thì gần đây có nhiều tác giả truyện ngắn viết về ĐBSCL khá
thành công và có nhiều triển vọng sẽ đi xa hơn. Điều đó đã mở ra nhiều
hƣớng đi mới đầy triển vọng cho văn chƣơng vùng ĐBSCL.
1.3. Văn học cũng đòi hỏi có sự tổng kết ở từng giai đoạn để tạo thế đi
lên. Mọi phƣơng pháp, mọi phong cách sáng tác đều cần đƣợc khuyến khích
tìm tòi, thể nghiệm.
So với các thể loại văn học khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 phát
triển nhanh về số lƣợng và có những đóng góp đặc sắc về nội dung cũng nhƣ
nghệ thuật, nhất là việc thể hiện đời sống, tâm hồn, tính cách của ngƣời
ĐBSCL trong thời kỳ này.
Thế nhƣng đến nay các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một số
tác giả nhƣ Sơn Nam, Trang Thế Hy, Phi Vân, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng
… và chủ yếu là những sáng tác của họ trƣớc 1975, và gần đây là một số công
trình nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ.
Thaønh phoá Hoà Chí Minh – 2011
4
Ngoài ra, cũng có một vài công trình nghiên cứu truyện ngắn ở một số
địa phƣơng, nhƣ truyện ngắn An Giang, Đồng Tháp,…mà chƣa có công trình
nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện về truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến
nay.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng Bắc bộ, nhƣng phần lớn cuộc đời
tôi lại gắn bó sâu nặng với ĐBSCL. Vẻ đẹp của „„nắng chói chang vàng tƣơi
lúa hát‟‟ và „„những con ngƣời mặt đẹp nhƣ hoa‟‟ (Lê Anh Xuân) cùng cái
trong trẻo mát lành của một dòng sông quê đỏ nặng phù sa, rồi tình đất, tình
ngƣời, hƣơng rừng, hƣơng biển... Ở nơi đây đã tạo nên một hƣơng vị rất
riêng, cũng nhƣ làm cho chúng tôi thêm gắn bó sâu nặng với vùng đất này,
vừa gần gũi, thân quen, song cũng vừa độc đáo mới mẻ đến vô chừng.
Với những lẽ trên, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề Khảo sát đặc
điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay.
Vẫn biết rằng muốn đạt đƣợc sự thành công ở vấn đề này, chúng tôi sẽ
gặp không ít khó khăn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tổng hợp, đánh giá dựa trên các
nguồn tƣ liệu sau:
Các tham luận trong Hội thảo bàn tròn Văn xuôi đồng bằng lần thứ 1 tại
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Lời giới thiệu ở các Tập truyện ngắn và Tuyển tập truyện ngắn từ 1975
đến nay của các nhà văn ở ĐBSCL.
Một số luận văn Cao học thực hiện đề tài về truyện ngắn ĐBSCL trong
phạm vi một tỉnh hoặc một tác giả cụ thể.
Trên các báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), Văn nghệ trẻ, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, Tạp chí Nhà văn…
Trên các website nhƣ:
5
- http://www.vannghesongcuulong.org;http://tuoitreonline.vn
- http://www.evan.com.vn, ...
Từ những tƣ liệu thu thập đƣợc, chúng tôi tạm chia thành hai loại ý kiến
sau:
- Ý kiến bàn về những đóng góp nổi bật của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
- Ý kiến bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
2.1. Ý kiến bàn về những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay
2.1.1. Những đóng góp về nội dung truyện ngắn ĐBSCL
Trong bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1975 đến nay -
Thành tựu và những điều trăn trở, Hoài Phƣơng nhìn nhận:“Truyện ngắn đã
có những cách tân và đạt nhiều thành tựu đáng tự hào về nội dung lẫn hình
thức thể hiện”[123]. Còn trong bài Đi tìm „„chân dung‟‟ truyện ngắn đồng
bằng sông Cửu Long, Võ Tấn Cƣờng nhận xét: “Phác thảo chân dung truyện
ngắn ĐBSCL, tôi cảm nhận đƣợc tính cách con ngƣời, sắc màu văn hóa của
vùng đất này‟‟[24]. Trong bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long: một khu
vực văn xuôi có nhiều đặc sắc, Chiêm Thành cũng đề cập đến: “tính cách con
ngƣời Nam bộ trong thời hiện đại đa diện và rất phức tạp, chứ không phải
đơn giản là phóng khoáng, hào hiệp, giàu tình nghĩa nhƣ cái nhìn bất di bất
dịch của một số ngƣời”[135, tr.53]. Còn ở bài Cá tính và bản lĩnh văn xuôi
Nam bộ, Hồ Tĩnh Tâm đã chỉ ra những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ
1975 đến nay về nội dung phản ánh: „„Dựng nên bức chân dung về tâm linh,
tình cảm của con ngƣời Nam bộ trong cuộc sống. Đó là những vấn đề luôn
tạo nên niềm trăn trở, thao thức trong đời sống hôm nay nhƣ: nỗi đau sau khi
chiến tranh qua đi; thân phận con ngƣời bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh; khát
6
vọng tình yêu và hạnh phúc; tự vấn lƣơng tâm trƣớc những những gì đã và
đang diễn ra trong cuộc sống‟‟[147].
Với bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long - một chặng đƣờng phát
triển, tác giả đánh giá cao một số tác phẩm có giá trị đích thực đáng đƣợc
quan tâm với hai mảng đề tài lớn trong sáng tác văn học sau 1975 là „„chiến
tranh cách mạng và quá trình xây dựng, đổi mới của đất nƣớc‟‟. Trong đó,
vấn đề tự vấn lƣơng tâm diễn ra xuyên suốt ở hai mảng đề tài này “Thân phận
nhân vật trong các tác phẩm thƣờng gởi một phần cuộc đời trong chiến tranh
bom đạn, một phần thao thức vƣơn tới cuộc sống mới. Trong kháng chiến, văn
học hƣớng con ngƣời vƣơn tới giành chiến thắng; ngƣợc lại thời bình, văn
học rộng đƣờng khai thác hơn, khắc họa hình tƣợng con ngƣời với nhiều mối
quan hệ, con ngƣời trong đời thƣờng, trong nghịch cảnh, bất hạnh, niềm vui
và nỗi đau,…”[134, tr.57].
Trong bài Một phong vị truyện ngắn đồng bằng riêng biệt trên trang Web
Văn nghệ sông Cửu Long, Tƣờng Vi nhận xét: “Có truyện ngắn còn đi vào
tâm trạng phức tạp của những con ngƣời thành thị, bị dằn vặt giữa những
mâu thuẫn tiền tài và khát vọng tình yêu,... hoặc câu hỏi lớn về căn bệnh quan
liêu của các quan chức…Dù dƣới góc nhìn nào, các tác giả cũng mở cho
nhân vật một lối thoát, chứa đựng nhân sinh quan: Cuộc sống vốn sẽ không
quá khắc nghiệt với những ai biết vƣơn lên và phục thiện”[195].
Còn qua bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay -
thành tựu và những điều trăn trở, Hoài Phƣơng cho rằng:„„Truyện có sự vận
động và phát triển rất nhanh, đáp ứng kịp thời sự chuyển đổi của xã hội và
con ngƣời sau chiến tranh. Chính nhờ sự chuyển tải nhanh và kịp thời nhiều
vấn đề bức xúc, gần gũi với đời sống xã hội, cùng với giọng văn trầm lắng,
nhẹ nhàng, tâm tình nhƣ len lỏi vào tận đáy sâu tâm hồn con ngƣời‟‟[123].
7
Với bài Nhà văn Nguyễn Thanh - ngƣời nặng nợ văn chƣơng, tác giả
khái quát nội dung phản ánh trong sáng tác của ông:“Truyện của ông nhiều
chi tiết nhỏ nhít mà sống động lạ lùng, đọc lên cứ nhƣ mình đang ở đó, trong
hoàn cảnh đó, nói mấy câu dân dã đó…nếu ngày xƣa ông say mê xây dựng
hình tƣợng ngƣời lính thì sau này, nhân vật của ông chủ yếu là nông dân. Họ
hào sảng, tốt bụng, nhân nghĩa nhƣng phải trăn trở, day dứt rất nhiều trong
cuộc mƣu sinh. Và những ngƣời phụ nữ luôn hiện ra với tất cả vẻ đẹp, cái đẹp
lấp lánh từ đau khổ, hy sinh, từ sự vùi dập…”[173, tr.29].
Trong lời giới thiệu tập truyện ngắn Bóng chiều hôm - Nguyễn Thanh,
Nguyễn Thị Thanh Xuân đƣa ra nhận xét đối với cảm hứng về con ngƣời và
cuộc sống ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc: „„Cảm hứng kín đáo xuyên suốt
tác phẩm của Nguyễn Thanh là cái thƣờng ngày của cuộc đời. Bằng một bút
pháp trầm tĩnh, chân tình, đôi khi còn có phần chân phƣơng trong cách viết,
Nguyễn Thanh đƣa chúng ta đến với những cuộc sống và thế giới tinh thần
của những con ngƣời bình thƣờng ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Bằng
những chi tiết nhỏ tƣơi nguyên, trang viết của Nguyễn Thanh phản ánh cuộc
sinh sôi thầm lặng hay cuộn chảy ào ạt ở Cà Mau trong dịp xây dựng. Ở đó
có những con ngƣời làm việc không mệt mỏi với một ý thức lao động đẹp đẽ
không hề nhân danh cho những giá trị lớn lao. Ở đó đầy ắp tiếng cƣời con
trẻ, tiếng sóng biển, ánh lửa đốt đồng, tiếng vịt gọi bầy, tiếng xuồng lao trong
đêm trên kênh rạch thoảng mùi bùn nồng ấm‟‟[133].
Bàn về Thế giới truyện ngắn Bích Ngân, Huỳnh Phan Anh nhận định:
“Qua từng trang toát ra hơi thở và nhịp đập của vùng đất thân thƣơng nơi
tận cùng của đất nƣớc, tác giả đã đƣa ngƣời đọc đến hoặc đến gần hơn, với
những mảnh đời và cảnh đời làm nên hồn đất lẫn hồn ngƣời, hiền hoà và
mãnh liệt, đã mở ra nhiều cánh cửa nhƣng còn đó bao điều bí ẩn. Ngôn ngữ
và phong cách Bích Ngân in rõ những nét đặc trƣng Nam bộ…Nhƣng điều
8
đáng nói và cũng hiện rõ trong tài năng của cô là chất giọng Nam bộ vẫn in
đậm trên từng trang viết nhƣng không nặng phần câu nệ hay cứng nhắc đến
cƣờng điệu trong từng câu, từng chữ mà vẫn toát ra nét tinh tế và trữ tình
riêng mở toang mọi giới hạn…Truyện ngắn Bích Ngân thƣờng dung dị, với
những con ngƣời và cuộc sống thật bình thƣờng, gần gũi, dễ tìm tới nhất, dễ
bắt gặp nhất…”[7].
Đánh giá về nhà văn Trang Thế Hy, Chiêm Thành trong bài văn xuôi
ĐBSCL có nhiều đặc sắc đã nhận xét: „„Ông đã ý thức đƣợc sức nặng của
từng con chữ - sức nặng ấy có đƣợc là nhờ sự chiêm nghiệm về cuộc đời mà
trên hết là nhờ nỗi đau đớn trong ý thức trả những món nợ nƣớc mắt của thế
gian”[135].
Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có nhận xét khá thú vị về Nguyễn Ngọc Tƣ,
ông ví: “Cô ấy nhƣ một cái cây tự nhiên mọc lên giữa rừng tràm hay rừng
đƣớc Nam bộ vậy, tƣơi tắn lạ thƣờng, đem đến cho văn học một luồng gió mát
rƣợi, tinh tế mà chân chất, đặc biệt Nam bộ”[115].
Trong Bài học văn chƣơng từ cánh đồng bất tận, Bùi Việt Thắng đã có
những nhận xét khá sắc sảo về nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tƣ: “Nguyễn Ngọc
Tƣ đã xây dựng biểu tƣợng văn chƣơng và ngôn ngữ văn chƣơng, trong đó
cánh đồng là một biểu tƣợng giàu ý nghĩa. Cánh đồng không phải là cánh
đồng mẹ, nơi lƣu giữ tâm thức của cộng đồng, nơi truyền tình thân yêu nƣớc,
là bằng chứng về sự cố kết máu thịt giữa con ngƣời và đất đai…mà là cánh
đồng chết”[144].
Nguyễn Lâm Điền - Huỳnh Hải Đăng cũng đã khái quát những dấu ấn
văn hóa của vùng đất ĐBSCL đƣợc Nguyễn Ngọc Tƣ thể hiện sinh động
trong các truyện ngắn của chị mà nổi bật nhất là: “Cách nhà văn miêu tả một
trong những nét đẹp về đời sống tinh thần của ngƣời ĐBSCL mà những vùng
miền khác không có đó là đờn ca tài tử, cải lƣơng”[46].
9
Nghiên cứu truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay (qua Tuyển tập truyện
ngắn đồng bằng sông Cửu Long 1975-1995 và Tuyển tập 18 Nhà văn đồng
bằng sông Cửu Long), Trần Mạnh Hùng cho rằng: “Cùng với sự đổi mới và
phát triển của văn học Việt Nam từ sau 1975, truyện ngắn ĐBSCL đã thể hiện
đƣợc tâm hồn và tính cách của ngƣời ĐBSCL trong thời kỳ này” và “Với
hƣơng sắc riêng, truyện ngắn ĐBSCL đã lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp đa
dạng và phong phú cho nền văn học dân tộc”...„„Sự mộc mạc, chân thật, bộc
trực mà luôn thắm đƣợm tình nghĩa” của con ngƣời nơi đây. Ngƣời đọc
cũng:“nhận ra phần nào đặc điểm nổi bật của cảnh quan địa lý, lịch sử, văn
hoá và tâm hồn tính cách con ngƣời của vùng đất này”[74, tr.702-703].
Giới thiệu về Truyện ngắn Ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ có
nhận xét rất chính xác thể hiện đƣợc nét đặc trƣng của thiên nhiên vùng sông
nƣớc: “Có một điều đặc biệt thú vị khi đọc truyện ngắn của ba tác giả nữ
ĐBSCL, đó là ngƣời đọc luôn bắt gặp một không gian đầy quyến rũ và thơ
mộng của vùng sông nƣớc Cửu Long với những bờ kênh, con rạch, với hình
ảnh những miệt vƣờn, những cù lao xanh hút tầm mắt và những thú vui điền
dã mang đậm đặc trƣng của miền đất Nam bộ”[196, tr.11].
Trong bài giới thiệu truyện ngắn trên Website Văn nghệ sông Cửu Long
với tựa đề Một phong vị đồng bằng riêng biệt, Tƣờng Vi viết: “Tập truyện đã
gợi lên cho ngƣời đọc hình ảnh sông nƣớc, làng quê với cảm giác nhớ nhung,
khắc khoải về một vùng đất, đặc biệt là trầm buồn trong những ngày mƣa
lũ,… cho ngƣời đọc những câu chuyện thú vị về một vùng đất hào sảng, nơi
có những tay “sát cá”, những buổi “ ăn ong”, những vùng nƣớc cá tôm nhiều
vô kể‟‟[195].
Còn ở bài Thiên nhiên và con ngƣời Nam bộ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ, Tiền Văn Triệu nhận định: „„Dòng sông và cánh đồng rộng là không
gian phù hợp để những câu hò, câu ca vọng cổ cất lên mỗi khi gặp nỗi buồn‟‟
10
Nguyễn Thanh lại có cái nhìn khái quát hơn về sự trù phú của thiên
ĐBSCL: “Vốn là một vùng châu thổ nhiệt đới, đƣợc tạo thành do phù sa Cửu
Long bồi tụ…đây là vùng đất trẻ, đất mới với điều kiện địa lý đặc thù thiên
nhiên ƣu đãi”[134, tr.59].
Từ những ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy, mỗi công trình nghiên cứu có
cách tiếp cận khác nhau. Hƣớng tiếp cận chủ yếu của các công trình trên là
hƣớng tiếp cận nhân học và hƣớng tiếp cận văn hóa học (đƣơng nhiên không
thể thiếu hƣớng tiếp cận ngữ văn học). Theo những hƣớng tiếp cận này, các
nhà nghiên cứu trên khai thác tập trung vào đặc trƣng tính cách con ngƣời và
đặc trƣng văn hóa mà các truyện ngắn ĐBSCL đã vẽ nên qua lăng kính đạo
đức - thẩm mỹ và cá tính của mỗi nhà văn. Nhìn chung, các công trình trên đã
đề cập đến những đóng góp nổi bật ở phƣơng diện nội dung của truyện ngắn
ĐBSCL sau 1975.
2.1.2. Những đóng góp nổi bật về nghệ thuật
Trong tham luận hội thảo Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL, lần I, Hồ Tĩnh Tâm
có nhận xét: “Một số cây bút văn xuôi ĐBSCL đã sử dụng thành thục các giá
trị đặc trƣng ngôn ngữ Nam bộ, thậm chí còn nâng cao ngôn ngữ Nam bộ lên
tầm cao của ngôn ngữ nghệ thuật”[147]. Ông còn cho rằng truyện ngắn
ĐBSCL đã dựng đƣợc“chân dung về tâm linh, tình cảm của ngƣời Nam bộ
đúng thứ ngôn ngữ rất thuần Nam bộ”[147].
Bàn về nghệ thuật truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, Võ Tấn Cƣờng
cho rằng: “Truyện ngắn ĐBSCL có diện mạo riêng với những phong cách
nghệ thuật mang đậm nét đặc điểm của văn hoá truyền thống”[24].
Nhận xét về cách viết của một số tác giả truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay, Hoài Phƣơng nhận định: “Đa số các nhà văn ở ĐBSCL có cách viết
uyển chuyển và nhẹ nhàng hơn, ít tuân thủ theo các kết cấu truyền thống là
phải có hậu, thậm chí nhiều truyện không có phần kết giống nhƣ một cánh
11
cửa khép hờ. Đặc biệt, có một số tác giả đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân
vật giúp cho ngƣời đọc cảm thấy thích thú”[123].
Nhận định về nghệ thuật sử dụng phƣơng ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
của ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ viết: „„Ngôn ngữ của vùng đất
Nam bộ với những phƣơng ngữ, thổ ngữ độc đáo hay những đặc trƣng trong
lời ăn, tiếng nói của ngƣời Nam bộ luôn đƣợc sử dụng nhuần nhị, tự nhiên
trong mỗi tác phẩm đã tạo nên cho truyện ngắn của ba tác giả nữ một bản sắc
riêng, tạo ấn tƣợng đối với ngƣời đọc‟‟[196, tr.12].
Nhận xét về nghệ thuật sử dụng phƣơng ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tƣ, Huỳnh Công Tín viết: “Nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật,
chị đã sử dụng ngôn từ của phƣơng ngữ Nam bộ khá thành công trong sáng
tác của mình. Điều này góp phần làm nên một văn phong riêng ở chị. Tất
nhiên có thể có ngƣời không đồng tình với những nhận định này vì cho rằng,
trong tác phẩm văn chƣơng mà sử dụng quá nhiều từ địa phƣơng thì sẽ gây
trở ngại cho ngƣời đọc, hạn chế độc giả. Nhƣng, để có đƣợc những sáng tác
phản ánh sinh động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng đƣợc chất liệu
ngôn từ của thực tại cần phản ánh”[152, tr.4].
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tƣ qua Cánh đồng bất
tận, Đặng Vũ nhận xét: “Nhà văn có lối viết truyện thật hay, không theo
khuôn phép nào, cũng chẳng theo chủ nghĩa này nọ, không gò bó, trái lại rất
tự nhiên, thoải mái,“viết nhƣ chơi”[184].
Trần Phỏng Diều bàn về Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tƣ: “Có thể nói, thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ
chính là hình tƣợng ngƣời nghệ sỹ, hình tƣợng ngƣời nông dân và hình tƣợng
con sông đƣa mình uẩn khúc, chở nặng tình ngƣời”[31].
12
Còn ở bài Điểm nhìn và lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Ông Thiềm
Thừ của Trần Kim Trắc, Đỗ Thị Hiền nhận định: Truyện ngắn này “gửi đến
chúng ta một thông điệp về nhân cách con ngƣời từ góc nhìn văn hoá”[69].
Trong bài Yếu tố giọng điệu trong truyện ngắn Sơn Nam, Trần Phỏng
Diều nhận xét: “Điều dễ nhận thấy nhất trong giọng điệu truyện ngắn Sơn
Nam đó là giọng ngậm ngùi, giọng tâm tình, hoài niệm, giọng rề rà, chậm rãi.
Có thể nói giọng rề rà, chậm rãi là một đặc trƣng trong truyện ngắn của
ông...”[30].
Bàn về phong cách Sơn Nam, có ý kiến cho rằng: „„Văn Sơn Nam không
ồn ào nhƣ gió chƣớng, lại không trong veo nhƣ nƣớc cất trong phòng thí
nghiệm, mà nó là thứ nƣớc chất lỏng hồng hào có tên phù sa, chỉ cần vốc lên
đã thấy mỡ màu cả bàn tay... Những cảnh, những đời, những tâm sự của ông
dù với tính cách hảo hớn, hào hùng nhất, sảng khoái và chịu chơi nhất bao
giờ cũng pha một giọng kể trầm buồn, u hoài, xa vắng‟‟[58].
Ở bài Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm sâu một phong cách Nam Bộ,
Trần Vệ Giang đã viết: “Không phải kiểu Nam bộ quê rặt, địa phƣơng tính,
văn chƣơng của Nguyễn Quang Sáng có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng
sông, cái khoáng đạt, giản đơn của con ngƣời miền sông nƣớc. Và quan trọng
hơn hết là, ông thâu tóm vào tác phẩm cái hồn cốt Nam bộ”[187].
Ngoài các công trình đã đề cập trên đây, trong các trƣờng đại học ở khu
vực và thành phố Hồ Chí Minh sinh viên, học viên cao học ngành ngữ văn đã
thực hiện luận văn với đề tài về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975. Trong số đó
đáng chú ý là đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Đồng Tháp giai đoạn
1975 đến 2005 (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn Anh Dân). Tác giả luận văn đã
phát hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới nhân vật, sự đặc sắc trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của truyện ngắn Đồng Tháp trong cách thể hiện xung
đột, sự kiện, trong lựa chọn chi tiết và sử dụng ngôn ngữ… Đề tài Những đặc
13
điểm nổi bật của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn
Thị Thu Thuỷ) là một công trình nghiên cứu công phu và nghiêm túc về
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ. Tác giả luận văn khẳng định: „„Mọi sự ồn ào
rồi sẽ qua đi, những giá trị đích thực sẽ ở lại, có thể nói Nguyễn Ngọc Tƣ là
gƣơng mặt của văn học Việt Nam đƣơng đại, chất nhân văn trong sáng tác
của chị là điều làm đọc giả say mê và thích thú. Phải chăng đó là do tình
nhân ái, tính nhân bản là gốc rễ phẩm chất của một nhà văn tài năng‟‟...
Nhìn chung, các ý kiến đã chỉ ra đƣợc một số đóng góp ở phƣơng diện
nghệ thuật nhƣ phong cách, thị hiếu thẩm mỹ, giọng điệu, ngôn ngữ truyện,...
đặc biệt nghệ thuật sử dụng phƣơng ngữ Nam bộ trong tác phẩm. Vốn ngôn từ
địa phƣơng dƣới bàn tay nhào nặn, sắp đặt câu chữ khéo léo của nhà văn đã
góp phần quan trọng cho thành công về mặt nghệ thuật của các nhà văn
ĐBSCL.
2.2. Bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay
Trong bài Đi tìm„„chân dung‟‟ truyên ngắn ĐBSCL, Võ Tấn Cƣờng nhận
xét về sự hạn chế trong việc xây dựng nhân vật và phong cách diễn đạt: “Đọc
hàng trăm truyện ngắn ĐBSCL, tôi nhận ra sự đóng băng trong việc miêu tả
tâm lý, tính cách nhân vật của một số tác giả... Truyện ngắn ĐBSCL chƣa có
nhiều tác phẩm tạo dựng đƣợc những điển hình nhân vật có tầm nhìn, có khả
năng ý thức về cái tôi của con ngƣời trong mối quan hệ với cuộc đời và vũ
trụ. Các nhà văn chƣa đào sâu vào miền bí ẩn của tâm linh con ngƣời với
nhƣng xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa cao thƣợng và thấp hèn... Các
nhà văn ĐBSCL chƣa xây dựng đƣợc những nhân vật có tính cách, tầm vóc
ngang tầm hoặc cao hơn những ngƣời mẫu trong cuộc sống. Hầu hết các
truyện ngắn viết theo lối kể chuyện truyền thống, nhịp điệu và mạch truyện
chậm thiếu độ căng về cấu trúc‟‟[24, tr.14].
14
Cũng trong bài Đi tìm „„chân dung‟‟ truyện ngắn ĐBSCL, khi bàn về
ngôn ngữ truyện, Võ Tấn Cƣờng có những nhận xét khá thẳng thắn: „„Ngôn
ngữ kể chuyện trong nhiều truyện ngắn pha tạp nhiều khẩu ngữ, thiếu sự gọt
giũa, chắt lọc....‟‟[24, tr.14].
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tƣ, Bùi Việt Thắng nhận
xét: “Văn viết Nguyễn Ngọc Tƣ gần với văn nói”[146].
Trong bài Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL khi nhìn nhận về hạn chế của truyện
ngắn, nhà văn Nguyễn Ngọc Tƣ đã dẫn ý kiến của Nguyên Tùng: „„Thừa tả
thực mà thiếu tƣởng tƣợng. Truyện ngắn của các tác giả ĐBSCL chúng ta dễ
gây cho ngƣời đọc cảm giác:„„Đó là câu chuyện có thật‟‟.„„Nguyên liệu thô‟‟
còn đan bện quá nhiều trong tác phẩm hƣ cấu. Chính điều này đã làm giảm
sự hứng thú cho ngƣời đọc...‟‟[147, tr.41].
Nhìn chung các nghiên cứu về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 đều có
đƣợc những tìm tòi, khám phá đáng quý, đáng trân trọng. Lẽ dĩ nhiên công
trình của chúng tôi sẽ đƣợc thừa hƣởng nhiều ý kiến quý báu mà các nghiên
cứu trƣớc đó đã gợi ra hoặc khẳng định. Trên cơ sở đó, chúng tôi có điều kiện
để đi sâu hơn, phát hiện thêm những điều mới mẻ về truyện ngắn ĐBSCL sau
năm 1975.
3. Mục đích nghiên cứu
Văn chƣơng nói chung, truyện ngắn nói riêng cũng đòi hỏi có sự tổng kết
ở từng giai đoạn. Vì vậy, khi thực hiện đề tài Khảo sát đặc điểm truyện ngắn
đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay, chúng tôi có điều kiện tiếp cận
toàn diện vấn đề. Qua đó, luận án làm rõ quan niệm truyện ngắn về ĐBSCL
cũng nhƣ nhận diện diện mạo, sự vận động và những đặc điểm chủ yếu của
thể loại này.
4. Đối tƣợng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
15
Sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian từ 1975, vì đây là năm đánh dấu
sự chuyển biến lớn lao của đất nƣớc. Văn học nói chung, văn học ĐBSCL
cũng bắt đầu vận động theo qui luật đời thƣờng.
So với các thể loại khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975, có bƣớc phát
triển nhanh cả về số lƣợng và chất lƣợng. Vì vậy, luận án chọn thể loại truyện
ngắn để khảo sát. Cụ thể các tuyển tập sau:
- Tuyển tập truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 - 1995,
Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
- Tuyển tập 18 Nhà văn đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản
Mũi Cà Mau.
- Truyện ngắn Ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất
bản Văn học.
- Truyện ngắn miền Tây, Nhà xuất bản Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.
- Truyện ngắn Đồng Tháp, An Giang và truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tƣ.
Nghiên cứu văn học phạm vi một vùng lãnh thổ, do vậy, ngoài khảo
sát truyện ngắn của tác giả truyện ngắn ĐBSCL là hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam, chúng tôi còn chọn khảo sát truyện ngắn của tác giả là hội viên Hội Văn
học - Nghệ thuật ở các địa phƣơng, để có cái nhìn toàn diện hơn về diện mạo
cũng sự vận động của thể loại truyện ngắn ở ĐBSCL từ 1975 đến nay.
Bên cạnh đó, luận án còn mở rộng phạm vi khảo sát một số truyện
ngắn ĐBSCL trƣớc năm 1975 và ở vùng miền khác để có cơ sở đối chiếu, so
sánh góp phần làm rõ hơn những nét riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
Chọn vấn đề Khảo sát truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, chúng tôi đã
tiếp cận với một đối tƣợng khá rộng và chƣa ổn định. Vì vậy, luận án chỉ khảo