Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

hoạt động nhập khẩu phôi thép tại văn phòng tổng công ty thép việt nam trong điều kiện hội nhập
PREMIUM
Số trang
86
Kích thước
986.3 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1623

hoạt động nhập khẩu phôi thép tại văn phòng tổng công ty thép việt nam trong điều kiện hội nhập

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Với chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề cho

kinh tế đối ngoại phát triển, giúp Việt Nam hoà mình vào xu thế phát triển chung

của khu vực và thế giới. Ngoại thương ngày càng trở nên quan trọng đối với sự

phát triển kinh tế của Việt Nam đặc biệt là trong quá trình thực hiện công nghiệp

hoá hiện đại hoá như hiện nay. Thông qua ngoại thương, đặc biệt là hoạt động nhập

khẩu, ngành công nghiệp còn non trẻ của chúng ta có điều kiện bổ sung những

nguồn lực cho sản xuất nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước.

Là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của Việt Nam, ngành thép

cũng đang đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập. Mặc dù được quan

tâm phát triển ngay từ khi mới ra đời nhưng với sự lệch lạc trong quá trình phát

triển đã khiến cho đến nay ngành thép Việt Nam phụ thuộc quá lớn vào nguồn

nguyên liệu nhập khẩu. Các doanh nghiệp thép Việt Nam trong một thời gian dài

chỉ quan tâm đến đầu tư vào các nhà máy cán thép mà bỏ qua đầu tư sản xuất phôi

thép để đến nay khả năng sản xuất phôi của Việt Nam chỉ chiếm 40% nhu cầu

trong nước. Với việc phụ thuộc lớn vào lượng phôi nhập khẩu trong điều kiện có

nhiều biến động phức tạp của thị trường thép thế giới, hoạt động nhập khẩu phôi

thép tại Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành thép nội địa.

Với vị trí hỗ trợ nhà nước trong việc điều tiết thị trường thép Việt Nam, Tổng

công ty Thép đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của ngành thép. Mặc dù đã có

sự quan tâm sớm đến hoạt động sản xuất phôi thép nhưng hiện nay nhập khẩu vẫn

được coi là hoạt động thường nhật của Tổng công ty thép. Với mong muốn tìm

hiểu về hoạt động nhập khẩu phôi thép cũng như những tác động của quá trình hội

nhập đến ngành thép thông qua hoạt động này, em đã chọn đề tài “ Hoạt động

nhập khẩu phôi thép tại Văn phòng Tổng công ty Thép Việt Nam trong điều

kiện hội nhập” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.

2. Phương pháp nghiên cứu

1

Đề tài được nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận về thương mại quốc tế

cùng với sự hỗ trợ của các phương pháp phân tích kinh tế, thu thập số liệu và nắm

bắt thông tin qua quá trình khảo sát thực tế hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Văn

phòng Tổng công ty Thép Việt Nam.

3. Phạm vi nghiên cứu

Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong ngành thép ngày càng nhiều.

Trong đó, Tổng công ty Thép Việt Nam là doanh nghiệp lớn nhất và nắm vị trí chủ

đạo của ngành thép nước ta. Sau khi chuyển sang mô hình công ty mẹ - con, công

ty mẹ Tổng công ty Thép Việt Nam bao gồm 12 đơn vị trực thuộc, 7 công ty con

và 22 công ty liên doanh. Trong đó có 25 công ty trực tiếp sản xuất, 6 công ty

thương mại và 10 đơn vị là các viện, trường, dịch vụ, phụ trợ... Trên cơ sở nghiên

cứu về Tổng công ty Thép dưới giác độ từ cơ quan Văn phòng của Tổng công ty

rút ra những tồn tại của doanh nghiệp thép nói riêng và cả ngành thép nói chung

dưới tác động của quá trình hội nhập.

4. Kết cấu chuyên đề

Nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương :

Chương I: Một số lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và vai trò của hoạt

động nhập khẩu phôi thép đối với ngành thép Việt Nam trong điều kiện hội nhập

Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu phôi thép tại Tổng công ty Thép

Việt Nam dưới tác động của quá trình hội nhập

Chương III: Phương hướng và một số giải pháp cho hoạt động nhập khẩu phôi

thép trong điều kiện hội nhập

2

CHƯƠNG I

MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ

VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHÔI THÉP ĐỐI VỚI

NGÀNH THÉP VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU KIỆN

HỘI NHẬP

1.1.1. Nhập khẩu và vai trò của nhập khẩu trong điều kiện hội nhập

1.1.1.1. Sự cần thiết của nhập khẩu trong điều kiện hội nhập

Ngày nay, cùng với sự phát triển và mở rộng không ngừng của quá trình quốc

tế hoá và toàn cầu hoá, các quốc gia trên thế giới không còn là các quốc gia đơn lẻ

nữa mà trở thành một trong những mắc xích quan trọng trong mạng lưới kinh tế,

chính trị toàn cầu.

Khoa học công nghệ và kỹ thuật không ngừng tiến bộ và phát triển nhưng nó

lại không tập trung hoàn toàn ở bất cứ quốc gia nào. Mỗi một quốc gia nhiều hay ít

đều nắm giữ riêng cho mình một công nghệ, một bí quyết sản xuất riêng hay một

thế mạnh đặc thù. Do đó, để có thể cùng nhau chia sẻ sự tiến bộ của khoa học công

nghệ, các quốc gia phải tham gia vào thương mại quốc tế mà hình thức cụ thể là

thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.

Bên cạnh đó, dựa vào vị trí địa lý cũng như tài nguyên thiên nhiên của mình,

mỗi quốc gia xác định được thế mạnh riêng. Những nước có giàu tài nguyên thì đẩy

mạnh khai thác nó (các nước dầu mỏ OPEC), những nước kém tài nguyên thì lại lựa

chọn cho mình con đường sử dụng nguồn nhân lực của mình để phát triển (Nhật

Bản). Chính từ sự khác nhau đó, các nước hình thành nên những lợi thế so sánh

riêng, dựa vào đó mà các nước tiến hành trao đổi, buôn bán với nhau. Và sự trao đổi

này diễn ra thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.

3

Như vậy có thể nói, cùng với sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, hoạt động

buôn bán ngoại thương ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của

mỗi quốc gia.

Là một bộ phận không thể thiếu của thương mại quốc tế, nhập khẩu được hiểu

là sự mua bán hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng

trong nước hoặc tạm nhập tái xuất nhằm thu lợi nhuận. Nó thể hiện sự phụ thuộc lẫn

nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thể giới. Thông qua

hoạt động nhập khẩu, các quốc gia bổ sung cho mình những hàng hóa trong nước

không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho nhu cầu nội địa với chi

phí thấp hơn hay cung cấp nguyên liệu cho sản xuất trong nước. Như vậy trong xu

thế toàn cầu hoá và hội nhập, hoạt động nhập khẩu nói riêng và thương mại quốc tế

nói chung chính là cầu nối nền kinh tế trong nước với thế giới, biến nền kinh tế thế

giới thành nơi cung cấp các “yếu tố đầu vào” và tiêu thụ các “sản phẩm đầu ra”

trong hệ thống kinh tế toàn cầu.

1.1.1.2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam

Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và từng

bước hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Trong điều kiện

nền kinh tế Việt Nam hiện nay, vai trò của nhập khẩu được thể hiện ở những khía

cạnh sau:

1.1.1.2.1. Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá đất nước.

Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách cơ bản từ lao

động thủ công sang lao động bằng cơ khí ngày càng hiện đại hơn.

Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, để tiến hành công nghiệp

hoá hiện đại hoá đất nước, Việt Nam phải thay đổi căn bản nền sản xuất trong nước

theo hướng hiện đại hoá. Muốn làm vậy, chúng ta phải tiến hành đổi mới máy móc,

công nghệ, thiết bị của các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghiệp điện và điện

tử, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp gang thép, công nghiệp chế biến... Như vậy,

4

nhập khẩu chính là một kênh cung cấp công nghệ cho quá trình công nghiệp hoá đất

nước.

Những năm qua, cùng với sự thay đổi trong cơ cấu nhập khẩu thì cơ cấu GDP

cũng thay đổi theo. Cụ thể cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam có sự biến động giữa hai

nhóm hàng tư liệu sản xuất và vật liệu tiêu dùng. Nhập khẩu hàng tiêu dùng có xu

hướng giảm trong 10 năm trở lại đây do sản xuất trong nước đã phần nào đáp ứng

đầy đủ nhu cầu tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu máy móc, công nghệ, thiết bị, nguyên

vật liệu luôn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu. Điều này góp phần thúc

đẩy nền công nghiệp trong nước phát triển, làm tăng tỷ lệ đóng góp của ngành trong

cơ cấu GDP cả nước.

Bảng 1: GDP phân theo khu vực kinh tế

Đơn vị: %

Năm

Tổng

số Nông - lâm - ngư nghiệp

Công nghiệp và xây

dựng

Dịch vụ

1990 100,00 38,74 22,67 38,59

1995 100,00 27,18 28,76 44,06

2000 100,00 24,53 36,73 38,74

2005 100,00 20,97 41,02 38,01

2006 100,00 20,36 41,56 38,08

2007 100,00 17,8 41,76 40,43

(Nguồn: Tổng cục thống kê và http://www.vietpartners.com/CtryBrief.htm)

Như vậy, nhập khẩu cũng đã có tác động thúc đẩy nhanh quá trình công

nghiệp hoá đất nước.

1.1.1.2.2. Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền

kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định

Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần đảm bảo sự cân đối theo những tỷ lệ

nhất định như cân đối giữa tiết kiệm và tiêu dùng, giữa hàng hoá và lượng tiền trong

lưu thông, giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong cán cân thanh toán quốc tế.

Nhập khẩu có tác động rất tích cựu thông qua việc cung cấp các điều kiện đầu

vào làm cho sản xuất phát triển, mặt khác tạo điều kiện để các quốc gia chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế, tận

5

1.1.1.2.3. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của

nhân dân

Nhập khẩu có vai trò làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của nhân dân

về hàng tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng

đủ nhu cầu. Thông qua nhập khẩu, nhân dân có nhiều sự lựa chọn sản phẩm hơn

cho cuộc sống, góp phần giảm bớt khoảng cách về mức sống so với các nước khác.

Nhập khẩu đồng thời tạo ra tính cạnh tranh cho sản xuất trong nước. Trên cơ

sở đó buộc các doanh nghiệp trong nước không ngừng nâng cao chất lượng, kiểu

dáng, mẫu mã, chủng loại cho sản phẩm của mình. Rõ ràng, trên phương diện này,

nhập khẩu đã đem lại một tác động kép tích cực cho nền kinh tế.

1.1.1.2.4. Nhập khẩu có vai trò thúc đẩy xuất khẩu

Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất

khẩu, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang và kém phát triển như

Việt Nam, vì khả năng sản xuất của các quốc gia này còn hạn chế. Điều này thể

hiện rõ quan niệm hiện nay “lấy nhập khẩu để nuôi xuất khẩu” và sự phát triển gia

công xuất khẩu ở Trung Quốc hay ở Việt Nam đã chứng minh cho điều này.

1.1.2. Các hình thức nhập khẩu

Do tính chất phong phú và đa dạng của các đối tượng buôn bán quốc tế, các

đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động nhập khẩu, cũng như các quy định của nhà

nước, nhập khẩu được biểu hiện dưới các hình thức sau:

1.1.2.1. Nhập khẩu tự doanh

Nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu trong đó bên nhập khẩu trực tiếp

nhập khẩu với danh nghĩa và chi phí của mình, rồi sau đó tiến hành kinh doanh, bán

hàng nhập khẩu cho khách hàng trong nước có nhu cầu.

Đặc điểm của nhập khẩu tự doanh:

- Hoạt động theo hình thức này thì độ rủi ro và độ mạo hiểm của doanh nghiệp

là rất cao do họ tự bỏ mọi chi phí cũng như tự tiến hành tiêu thụ hàng nhập khẩu.

- Khối lượng công việc rất lớn. Theo hình thức này, doanh nghiệp phải tiến

hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, thiết

6

lập phương án kinh doanh, đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính

sách luật pháp quốc gia và quốc tế

- Đây là hình thức đem lại lợi nhuận cao nhất do không mất chi phí trung gian

Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương với đối

tác nước ngoài khi tiến hành nhập khẩu, còn hợp đồng bán trong nước sau khi hàng

về sẽ được lập hoặc không cần lập một hợp đồng nào khác khi bán với hình thức

như: bán lẻ hoặc trao tay.

1.1.2.2. Nhập khẩu uỷ thác

Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp

trong nước có vốn, có nhu cầu nhập khẩu nhưng lại không có quyền tham gia vào

các quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp hay xét thấy nhập khẩu trực tiếp không có lợi

(bên uỷ thác), đã uỷ thác cho doanh nghiệp khác có chức năng trực tiếp giao dịch

ngoại thương (bên nhận uỷ thác) tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên

nhận uỷ thác có nghĩa vụ đàm đán ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài, làm thủ

tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một khoản phí gọi là phí

uỷ thác. Quan hệ giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong

hợp đồng uỷ thác.

Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác

- Theo hình thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (bên nhận uỷ thác) hoạt động

theo danh nghĩa của mình nhưng chi phí của người khác (bên uỷ thác)

- Khối lượng công việc được giảm bớt cho các bên. Bên nhận uỷ thác không

phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ

đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch, đàm phán với đối tác nước ngoài, ký

hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa cũng như thay mặt cho bên uỷ thác

khi có tranh chấp xảy ra với đối tác nước ngoài.

- Doanh nghiệp nhập khẩu phải làm hai hợp đồng: một hợp đồng nhập khẩu

với đối tác nước ngoài, một hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác

- Lợi nhuận của hoạt đồng nhập khẩu này sẽ bị chia sẻ cho các bên, bên uỷ

thác sẽ trả cho bên nhận uỷ thác thông thường là từ 0.5% - 1.5% giá trị hợp đồng.

7

1.1.2.3. Nhập khẩu tái xuất

Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu vào một nước nhưng không phải để

tiêu thụ trong nước mà để xuất sang nước khác nhằm thu lợi nhuận, nhưng hàng

nhập khẩu phải được đảm bảo là không được chế biến tại nước tái xuất.

Đặc điểm của nhập khẩu tái xuất:

- Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí tổ chức, gặp gỡ,

bàn bạc với đối tác nhập khẩu và đối tác xuất khẩu, nhằm đảm bảo thu được lợi

nhuận.

- Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai hợp đồng: một hợp đồng xuất khẩu,

một hợp đồng nhập khẩu nhưng không phải chịu thuế xuất nhập khẩu với mặt hàng

kinh doanh.

- Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp

lưng, hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà chuyển thẳng sang

nước thứ ba nhưng tiền thanh toán phải do doanh nghiệp tái xuất thu từ đối tác nhập

khẩu để trả cho đối tác xuất khẩu.

1.1.2.4. Nhập khẩu liên doanh

Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở hợp tác một cách tự

nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó ít nhất có một doanh nghiệp nhập khẩu

trực tiếp) nhằm phối hợp thế mạnh của các doanh nghiệp để cùng giao dịch nhập

khẩu và thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho các bên.

Trong đó các bên cùng chia sẻ lợi nhuận.

Đặc điểm của nhập khẩu liên doanh:

- Các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh chịu rủi ro thấp hơn so với nhập

khẩu tự doanh vì các doanh nghiệp trong trường hợp này cùng nhau chia sẻ rủi ro

và lợi nhuận

- Các doanh nghiệp dựa vào tỷ lệ vốn góp cũng như nghĩa vụ và quyền hạn

của mình để phân chia lãi lỗ.

8

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!