Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

giải pháp thu hút fdi của eu vào việt nam giai đoạn 2006 – 2010
PREMIUM
Số trang
89
Kích thước
1.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1410

giải pháp thu hút fdi của eu vào việt nam giai đoạn 2006 – 2010

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

LỜI MỞ ĐẦU

Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nước

vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Có thể nói, hiện nay hầu như không có quốc

gia nào đứng ngoài quá trình hội nhập quốc tế nếu không muốn tự cô lập mình và

rơi vào nguy cơ tụt hậu. Với truyền thống lịch sử lâu đời và nền văn hoá đậm đà

bản sắc dân tộc, cộng thêm vị trí địa lý quan trọng ở Đông Nam Á, Việt Nam có

thể giúp EU rất nhiều trong việc mở rộng và đẩy mạnh mối quan hệ cần thiết đối

với Việt Nam trong ngưỡng cửa của thế kỷ mới, nhất là trong nền kinh tế tri thức

hiện nay.

Xu thế hiện nay của thế giới là tự do hoá thương mại và đầu tư, trong đó

đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí ngày càng quan trọng đối

với cả nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Khai thác sử dụng ĐTNN một cách

có hiệu quả đang là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của nhiều nước trên thế giới, nhất

là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987,

không ai có thể phủ nhận những đóng góp to lớn mà nguồn vốn này đã mang lại

cho sự phát triển kinh tế ở Viêt Nam. Nói cách khác, Việt Nam không thể thiếu

nguồn vốn này cho sự phát triển kinh tế nếu muốn hoà nhập vào nền kinh tế thế

giới và không muốn tụt hậu.

Sau hàng loạt sự kiện xảy ra trong thập kỷ 90, đặc biệt là sự sụp đổ của các

nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô cũ và cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ Châu Á năm 1997, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng hụt hẫng do

mất đi các thị trường truyền thống và sự suy giảm của các hoạt động kinh tế đối

ngoại. Do đó, xuất hiện một yêu cầu mới là cần phải thường xuyên mở rộng và

nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác, đầu tư với các nước trên thế giới, nhất là với

những nước phát triển cao, có công nghệ kỹ thuật tiên tiến như các nước EU. Tuy

nhiên, cho đến nay dù các nhà đầu tư EU đã có nhiều dự án đầu tư lớn ở Việt

Nam với 2 nước thành viên là Pháp và Hà Lan đứng trong top 10 nhà đầu tư lớn

- 1 -

nhất ở Việt Nam, nhưng về tài chính cũng như kỹ thuật, lượng vốn đầu tư trực

tiếp mà họ đưa vào Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có.

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng đầu tư trực tiếp

của EU vào Việt Nam, phân tích những thành công cũng như trở ngại của hoạt

động này không những sẽ giúp chúng ta hình dung đầy đủ hơn bức tranh ĐTNN

ở Việt Nam hiện nay, mà còn góp phần cung cấp những hiểu biết để đưa ra

những chính sách, kiến nghị góp phần tích cực vào việc thúc đẩy hơn nữa hoạt

động này. Đây sẽ là những căn cứ quan trọng để hoạch định chính sách kinh tế

đối ngoại của Việt Nam với các nước thành viên EU.

Với những lý do đó, đề tài “Giải pháp thu hút FDI của EU vào Việt

Nam giai đoạn 2006 – 2010” được chọn làm luận văn tốt nghiệp. Bài viết được

thực hiện theo các phương pháp sau : phương pháp phân tích tổng hợp, phương

pháp so sánh, phương pháp quy nạp và diễn giải, phương pháp thống kê và mô

tả…

Luận văn được kết cấu thành 3 chương :

Chương I : Vốn FDI và vấn đề thu hút vốn FDI phát triển kinh tế Việt Nam

Chương II : Thực trạng thu hút FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 1988 –

2004

Chương III : Giải pháp thu hút FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 2006 –

2010

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của GS.TS. Vũ Thị Ngọc

Phùng, ThS. Nguyễn Quỳnh Hoa, cùng các chuyên viên của Cục Đầu tư nước

ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong quá trình hoàn thành luận văn này.

CHƯƠNG I :

- 2 -

VỐN FDI VÀ VẤN ĐỀ THU HÚT FDI PHÁT TRIỂN

KINH TẾ VIỆT NAM

I/ Một số lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam

1. Khái niệm và phân loại đầu tư nước ngoài

1.1. Khái niệm về đầu tư nước ngoài (ĐTNN)

Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm sản xuất hàng hoá đáp

ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.

Kết quả hoạt động đầu tư là sự tăng lên về giá trị của tài sản hữu hình hoặc

vô hình. Kết quả này không chỉ chủ đầu tư mà còn cả nền kinh tế được thụ

hưởng.

Vốn đầu tư là những tài sản. Trên giác độ quốc gia, nguồn vốn đầu tư được

chia làm hai loại là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Do đó, hoạt

động đầu tư cũng được phân chia thành hai hình thức cơ bản là đầu tư nước

ngoài và đầu tư trong nước.

ĐTNN là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc những mục

tiêu phát triển khác.

Về bản chất, ĐTNN là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức

cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và

hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các công ty,

tập đoàn nước ngoài hiện nay.

Hoạt động ĐTNN diễn ra ngày càng mạnh mẽ cả về quy mô lẫn tốc độ. Có

nhiều nguyên nhân tạo ra sự vận động của các dòng vốn trên thế giới. Sau đây là

một số nguyên nhân trực tiếp :

Thứ nhất, sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất của các quốc gia

đã tạo ra những lợi thế khác biệt của mỗi nước. Nhằm đạt được lợi ích cao nhất,

sự kết hợp lợi thế để tăng cường phát triển đã hình thành nên những quan hệ về

đầu tư nói riêng và các quan hệ quốc tế nói chung.

- 3 -

Thứ hai, xu thế bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng và tinh xảo nhằm vào

bảo hộ nền sản xuất trong nước. Để vượt qua hàng rào bảo hộ này đầu tư trực

tiếp là phương án hữu hiệu.

Thứ ba, quy mô tích luỹ của các nước phát triển rất lớn, giá cả của lao

động và các yếu tố đầu vào khác rất cao làm giảm tỷ suất lợi nhuận. Mặt khác,

nhiều sản phẩm ở các nước này trở nên lỗi thời được các nhà tư bản chuyển qua

các nước đang phát triển để sản xuất và tiêu thụ. Việc sản xuất tại các nước đang

phát triển không những giúp vượt qua hàng rào bảo hộ mà còn giúp các nhà tư

bản tiết kiệm được chi phí về tài nguyên, lao động và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Thứ tư, các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc huy động vốn

cho phát triển kinh tế do tích luỹ nội bộ còn hạn chế. Để phục vụ cho quá trình

công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH – HĐH) cần một lượng vốn đầu tư rất lớn.

Huy động vốn nước ngoài là giải pháp hiệu quả, không những rút ngắn thời gian

phát triển mà còn tạo động lực cho sự tăng trưởng. Chính phủ của các nước này

đưa ra nhiều chính sách khuyến khích ĐTNN, chủ động thu hút các nguồn vốn từ

bên ngoài. Những biện pháp đó đã tạo nhiều cơ hội bỏ vốn đầu tư, hấp dẫn các

nhà ĐTNN.

1.2. Phân loại đầu tư nước ngoài

ĐTNN được chia thành hai hình thức đầu tư : Đầu tư trực tiếp và đầu tư

gián tiếp. Đây là cách phân loại ĐTNN cơ bản theo mối quan hệ giữa quyền sở

hữu và quyền sử dụng vốn.

1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

FDI là hoạt động chủ yếu của ĐTNN, theo đó chủ ĐTNN đóng góp một số

vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia

điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Trong trường hợp này, quyền sử

dụng vốn thống nhất với quyền sở hữu vốn. Quyền lợi và nghĩa vụ tương xứng

với tỷ lệ vốn góp.

- Xét trên khía cạnh quyền sở hữu : FDI là một loại hình ĐTNN được thực

hiện khi quyền sử dụng gắn liền với quyền sở hữu tài sản đầu tư. Để nhận biết

ĐTNN có phải là đầu tư trực tiếp hay không, mỗi nước đều đưa ra tiêu chuẩn xác

định riêng. Ví dụ ở Mỹ, FDI bao gồm tất cả các dạng đầu tư, từ đầu tư chứng

- 4 -

khoán đến cho vay, với điều kiện là công ty đầu tư phải nắm giữ hơn 10% sở hữu

tài sản của một công ty nước ngoài. Theo tổng kết tiêu chuẩn của một số nước

cho thấy, một công ty hoạt động đầu tư chiếm ít nhất 10% hoặc 25% sở hữu tài

sản của một công ty nước ngoài thì đầu tư đó có thể được xếp vào hạng đầu tư

trực tiếp nước ngoài.

- Xét trên khía cạnh cán cân thanh toán, FDI thường được hiểu là phần

tăng thêm trên giá trị sổ sách của lượng đầu tư ròng ở một quốc gia được thực

hiện bởi các nhà ĐTNN, đồng thời các nhà đầu tư này cũng chính là những người

sở hữu chính và nắm giữ quyền kiểm soát quá trình đầu tư đó.

- Trên thực tế phần lớn FDI được thực hiện dưới dạng các công ty con

hoặc các công ty trực thuộc các công ty xuyên quốc gia (TNCs) và nhà đầu tư là

những tổ chức chóp bu của các công ty này. Một điều đáng lưu ý là ngày nay

FDI còn được thực hiện bởi các công ty nhỏ và vừa. Tuy nhiên, TNCs vẫn giữ

vai trò chủ đạo trong quá trình này. Do đó, FDI có thể được hiểu là sự mở rộng

phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của TNCs trên phạm vi quốc tế. Sự mở

rộng đó bao gồm sự chuyển giao vốn, công nghệ, và các kỹ năng sản xuất và bí

quyết quản lý tới nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện quá trình sản xuất kinh

doanh theo kế hoạch của dự án đầu tư.

- Theo Điều 2 Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1996 : “FDI là việc nhà

ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến

hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.

Hình thức đầu tư này có một số đặc điểm cơ bản sau :

Thứ nhất, đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư

tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ

lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những

ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.

Thứ hai, chủ ĐTNN điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh

tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư

chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực

nhất định và chỉ được tham gia bên liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước

- 5 -

ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49% ; 51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ.

Trong khi đó, Luật ĐTNN của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức

100% vốn nước ngoài và quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn

pháp định của dự án.

Thứ ba, thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ

thuật tiên tiến học hỏi kinh nghiệm quản lý… là những mục tiêu mà các hình

thức đầu tư khác không giải quyết được.

Thứ tư, nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của

chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động, nó còn

bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng

như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.

Ở Việt Nam, hình thức FDI chủ yếu là xây dựng mới. Với một đất nước

còn nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, hình thức này phát huy nhiều ưu thế và

được khuyến khích của chính phủ theo quy định của pháp luật.

Hiệu quả tài chính của việc sử dụng vốn FDI thường rất cao. So với việc

sử dụng vốn đầu tư gián tiếp, ở Việt Nam, chủ yếu là vốn ODA, hiệu quả trong

quá trình sử dụng vốn FDI là thách thức đối với chính phủ và các cơ quan nhà

nước trong việc sử dụng vốn ODA. Có nhiều lý do dẫn đến sự khác nhau trong

việc sử dụng vốn. Lý do thứ nhất là chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ đầu tư

cho những dự án có độ tin cậy về tính hiệu quả cao dựa theo kinh nghiệm dày

dạn trên thương trường của họ. Lý do thứ hai là chủ sở hữu vốn trong hoạt động

FDI cũng chính là đối tượng thụ hưởng còn trong hoạt động đầu tư gián tiếp, đối

tượng thụ hưởng trực tiếp từ dự án không phải là chủ đầu tư. Những lý do đó tạo

nên tâm lý sợ trách nhiệm, phó mặc trong hoạt động đầu tư gián tiếp, hậu quả là

tính hiệu quả kinh tế xã hội không cao.

Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên, hình thức chuyển giao vốn này chứa

đựng khả năng các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trở thành lực lượng thống trị

nền kinh tế bản địa. Trường hợp này xảy ra khi việc kiểm soát và điều tiết của

chính phủ nước chủ nhà với hoạt động FDI lơi lỏng. Việc cạnh tranh trong thu

hút vốn FDI buộc chính phủ các nước có những biện pháp nới lỏng quản lý. Khi

đó, khả năng chuyển giao công nghệ cho nước chủ nhà sẽ không được thực hiện

- 6 -

theo mong muốn của nước chủ nhà, đặc biệt là với các doanh nghiệp 100% vốn

nước ngoài.

Muốn khắc phục được những hạn chế trên, nước chủ nhà cần có đội ngũ

các nhà quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi để tiếp nhận và quản lý vốn FDI.

Kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á cho thấy, vốn FDI có vai trò trong

quá trình tăng trưởng thần kỳ của họ. Có nghĩa là vấn đề về hiệu quả sử dụng vốn

tuỳ thuộc vào cách huy động và quản lý sử dụng vốn ở nước tiếp nhận chứ không

chỉ phụ thuộc vào ý đồ của nhà ĐTNN.

Như vậy, FDI với tư cách là phương thức hoạt động chủ đạo của TNCs

không chỉ đơn thuần là sự chu chuyển tài chính quốc tế, mà cùng với nó là sự

chuyển giao công nghệ và các tài sản vô hình khác. Về thực chất, đây chính là

nhân tố tạo nên sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong dài hạn.

1.2.2. Đầu tư gián tiếp (FPI)

Đầu tư gián tiếp là một hình thức của ĐTNN, trong đó chủ sở hữu vốn

không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn đầu tư.

Loại hình đầu tư này có hai phương thức thực hiện là cho vay và viện trợ.

Cho vay được thực hiện qua hai dạng là vay với lãi suất thường và vay ưu đãi.

Vốn từ hình thức vay ưu đãi và vốn viện trợ không hoàn lại là bộ phận cầu thành

vốn phát triển chính thức (ODA).

Đầu tư gián tiếp có 5 đặc điểm cơ bản sau :

- Vốn của các tổ chức quốc tế, chính phủ nước ngoài thường có ưu đãi và

một số ràng buộc nhất định, thông thường tài trợ qua hình thức ODA. Mục tiêu

của chủ đầu tư chủ yếu là nâng cao mức sống của nhân dân bằng việc đầu tư phát

triển kết cấu hạ tầng, nâng cao dân trí, sức khoẻ, bảo vệ môi trường…

- Vốn của tư nhân tập trung vào việc cho vay, đầu tư chứng khoán. Thông

thường, việc đầu tư cho cổ phần bị ràng buộc bởi tỷ lệ vốn góp.

- Chủ đầu tư nước ngoài không trực tiếp điều hành hoạt động của các

doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, do đó bên tiếp nhận đầu tư có toàn quyền chủ

động hoàn toàn trong kinh doanh.

- 7 -

- Chủ ĐTNN thu lợi nhuận qua lãi suất cổ phiếu không cố định, tuỳ thuộc

vào kết quả kinh doanh.

- Tuy doanh nghiệp đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ,

kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý nhưng thay vào đó, doanh nghiệp có khả

năng phân tán rủi ro kinh doanh trong những người mua cổ phiếu, trái phiếu

doanh nghiệp. Do đó mà chủ đầu tư ít chịu sự rủi ro hơn hình thức FDI.

Kết quả của hoạt động đầu tư gián tiếp là bước chuẩn bị quan trọng cho

việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn FDI.

Bên cạnh đó, đầu tư gián tiếp cũng có những nhược điểm nhất định :

- Nước nhận vốn đầu tư có thể sử dụng sai mục đích, hiệu quả sử dụng vốn

không cao hoặc sử dụng lãng phí để lại gánh nặng nợ nần cho thế hệ sau.

- Với các hình thức mua cổ phần, chủ đầu tư bị hạn chế ở tỷ lệ cổ phần

được phép sở hữu đã làm giảm khả năng thu hút vốn.

- Nước nhận vốn không tiếp thu được công nghệ và kinh nghiệm quản lý.

Với các nước đang phát triển (LDCs), vốn ODA có vai trò to lớn trong

việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành năng lượng, góp phần

giải quyết tình trạng đói nghèo, lạc hậu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng

các nguồn vốn khác. Vấn đề đặt ra đối với các LDCs và các tổ chức tài trợ là việc

sử dụng hiệu quả phục vụ mục tiêu phát triển.

2. Các hình thức FDI tại Việt Nam

Luật ĐTNN Việt Nam quy định 3 hình thức FDI vào Việt Nam như sau :

2.1. Doanh nghiệp liên doanh

Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hoặc nhiều bên hợp tác

thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định giữa chính

phủ Việt Nam với chính phủ nước ngoài; hoặc do doanh nghiệp liên doanh hay

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hợp tác với các doanh nghiệp khác hoặc chủ

ĐTNN trên cơ sở hợp động liên doanh.

Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo mô hình công ty trách nhiệm

hữu hạn. Mỗi bên chịu trách nhiệm tương xứng với tỷ lệ vốn góp trong liên

- 8 -

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!