Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Điều kiện cần và đủ để chuyển sang chế độ điều hành chính sách lãi suất mới- Lãi suất cơ bản
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LỜI MỞ ĐẦU
Thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hoá, đưa đất nước phát triển và hội
nhập với cộng đồng quốc tế là tiến trình được ưu tiên hàng đầu của đảng và nhà
nước ta hiện nay. Việc mở cửa và tự do hóa thương mại hoàn toàn, tiến tới từng
bước tự do hoá tài chính trong khuôn khổ và các chế tài kiểm soát chặt chẽ theo
hướng thị trường có sự điều tiết của nhà nước là bước quan trọng nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế, đưa đất nước hoà nhập với sự phát triển chung của khu vực và
quốc tế. Do vậy, sử lý bài toán lãi suất và diều hành chính sách lãi suất được
xem là vấn đề hết sức nhạy cảm. được hầu hết các nước đang phát triển hết sức
quan tâm. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta hiện nay, việc sử lý bài toán lãi suất
và điều hành chính sách lãi suất đang là vấn đề rất phức tạp, khó khăn và cấp
bách nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Lãi suất vừa là công cụ hết sức quan trọng và nhạy cản trong việc điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia, vừa là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín
dụng. Nó có tác động to lớn đối với việc tăng hay giảm khối lượng tiền trong lưu
thông, thu hẹp hay mở rông tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích
thích hay cản trở đầu tư, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Vai trò đó ngày càng quan trọng và phức tạp cùng với quá trình đổi mới hoạt
động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển sâu sắc.
Như vậy, lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính chất hai mặt,
Nếu xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản suất_lưu
thôn7g hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy,lãi suất ngân hàng vừa là công
cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, vừa là công cụ đièu hành vi mô của các ngân
hàng thương mại. Như vậy cần có một chính sách lãi suất phù hợp, có hiệu lực
cao và được áp dụng nhất quán trong phạm vi cả nước. Song chính sách lãi suất
phải dược ngân hàng nhà nước điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo cho phù hợp với
từng thời kỳ, phù hợp với nhu cầu huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng nhằm
phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế,đồng thời dảm bảo cho hoạt động của
các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả.
1
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT
I. LÃI SUẤT – KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT
1. Các lý thuyết kinh tế về bản chất của lãi suất.
1.1. Lý thuyết của J.M.KEYNES về lãi suất.
J.M.KEYNES (1883-1964) nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh cho rằng
lãi suất không phải là số tiền trả cho công việc tiết kiệm hay nhịn chi tiêu vì khi
tích trữ tiền mặt người ta không nhận được một khoản trả công nào, ngay cả
trường hợp tích trữ rất nhiều trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Vì
vậy, lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “cho sở
thích chi tiêu tư bản”. Lãi suất do đó còn được gọi là công trả cho sự cha ly với
của cải, tiền tệ.
Từ sự phân tích trên ta thấy, lượng tiền lưu thông nó phụ thuộc vào lãi
suất. Nếu lãi suất cao thì người dân sẽ gửu tiền nhiều hơn dẫn đến lượng tiền
trong lưu thông giảm vì lúc này thì chi phí cơ hội của việc giữ tiền tăng lên.
Ngược lại, khi lãi suất thấp đồng nghĩa với việc chi phí của việc giữ tiền giảm
thì người dân sẽ sữ dụng tiền nhiều hơn vào việc chi tiêu hay đầu tư vào mục
đích khác có khả năng sinh lời lớn hơn.
1.2. Lý thuyết của C. Mac về lãi suất.
C. Mac đã nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của lãi suất ở trong xã hội tư
bản chũ nghĩa và cả trong xã hội chủ nghĩa xã hội và ông đã rút ra những kết
luận rất có giá trị.
1.2.1 Lý thuyết của C.Mac về nguồn gốc và bản chất của lãi suất trong nền
kinh tế hang hoá Tư Bản Chũ Nghĩa.
Qua quá trình nghiên cứu bản chất của xã hội tư bản, C. Mac đã vạch trần
qui luật giá trị thặng dư_Tức là giá trị do lao dộng không công của công nhân
làm thuê tạo ra. Đây là qui luật kinh tế cơ bản của chũ nghĩa tư bản và nguồn
gốc của mọi loại lãi suất đều xuất phát từ giá trị thặng dư.
Theo C.Mac khi xã hội phát triển thì tư bản tài sản tách rời tư bản chức
năng, tức là quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản. Nhưng mục
đích của tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư thì không thay đổi. Vì vậy khi
trong xã hội phát sinh mối quan hệ đi vay và cho vay, đã là tư bản thì sau một
thời gian giao cho nhà tư bản đi vay sử dung, tư bản cho vay được hoàn trả lại
cho chủ sở hữu của nó kèm theo một giá trị tăng thêm và ông gọi đó là lợi tức
2