Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Tổng công ty Thép Việt Nam giai đoạn (2004- 2008)- Thực
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại
Tổng công ty Thép Việt Nam giai đoạn
(2004- 2008)- Thực trạng và giải pháp
LỜI MỞ ĐẦU
Thép là vật tư chiến lược không thể thiếu của ngành công nghiệp, xây dựng và quốc
phòng, có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Ngành thép được xác định là ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, ngành thép đang gặp rất nhiều khó khăn do
những nguyên nhân chủ quan và khách quan như: năng lực sản xuất còn yếu kém,
trang thiết bị còn lạc hậu, những biến động của thị trường thế giới... Để đối phó với
tình hình đó, không thể thiếu được sự chỉ đạo và hỗ trợ từ nhà nước; cũng như sự
phối hợp, liên kết giữa các đơn vị sản xuất trong nước.
Tổng công ty Thép Việt Nam được thành lập từ những năm đầu thập kỷ 90, là đơn
vị có vai trò tiên phong, dẫn đầu trong lĩnh vực sản xuất thép của nước ta. Hàng
năm, Tổng công ty Thép Việt Nam đã cung ứng cho thị trường trong nước một
lượng thép lớn; đáp ứng tương đối nhu cầu về thép trong nước; nộp ngân sách hàng
trăm tỷ đồng. Trong những năm qua, Tổng công ty luôn chú trọng đầu tư mở rộng
quy mô, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nâng cao đáng kể năng lực cạnh tranh và củng cố uy tín trên thị trường.
Sau một thời gian thực tập tại Tổng công ty, được sự giúp đỡ từ các anh chị, cô chú
trong Tổng công ty cũng như sự hướng dẫn của các thày cô khoa Đầu tư, em đã
tổng hợp một số báo cáo phân tích và nghiên cứu để rút ra được những nhận định
chung về Tổng công ty, về tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình đầu tư phát
triển tại Tổng công ty. Qua đó em đã lựa chọn và đi sâu nghiên cứu đề tài: “Đầu tư
nâng cao năng lực cạnh tranh tại Tổng công ty Thép Việt Nam giai đoạn (2004-
2008)- Thực trạng và giải pháp”.
Đề tài của em gồm 2 chương:
Chương I: Thực trạng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Tổng công ty
Thép Việt Nam.
Chương II: Một số giải pháp tăng cường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
của Tổng công ty Thép Việt Nam .
Do thời gian tìm hiểu về công ty hạn hẹp ,trong báo cáo của em vẫn còn nhiều thiếu
sót và hạn chế, em rất mong nhận được sự góp ý và phê bình của các thầy cô để bài
viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI TỔNG
CÔNG TY THÉP VIỆT NAM
I.Khái quát về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp và vài nét về ngành thép Việt Nam
1.Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, khái niệm cạnh
tranh đã xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển sản xuất, trao đổi hàng
hoá và phát triển kinh tế thị trường.
Có nhiều quan điểm khác nhau khi nói về cạnh tranh, theo từ điển Kinh Doanh của
Anh, cạnh tranh được hiểu là “Sự ganh đua, kình địch giữa các nhà Kinh Doanh
trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một
loại Khách Hàng về phía mình”. Theo quan điểm này, cạnh tranh được hiểu là các
mối quan hệ kinh tế, ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để
đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy
Khách Hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
Cạnh tranh xuất phát từ hai điều kiện cơ bản là phân công lao động xã hội và
tính đa nguyên chủ thể lợi ích kinh tế, điều này làm xuất hiện các cuộc đấu tranh
giành lợi ích kinh tế giữa người sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ và các tổ chức
trung gian, thực hiện phân phối lại các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Cuộc đấu tranh
này dựa trên sức mạnh về tài chính, kỹ thuật công nghệ, chất lượng đội ngũ lao
động, quy mô hoạt động của từng chủ thể. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh
tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích, với người sản xuất Kinh Doanh là
lợi nhuận và với người tiêu dùng là tiện ích tiêu dùng.
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có
nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh
nghiệp, phạm vi nghành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên quốc gia
vv..điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra ở chỗ quy mô doanh nghiệp
hay ở quốc gia mà thôi. Trong khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn
tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một
quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân ...
- Ở Phạm vi quốc gia, theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống mỹ thì.
Cạnh tranh đối với một quốc giá là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường
tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi
hỏi của thị trường Quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng đợc thu nhập thực tế của
người dân nứơc đó.
- Tại diễn đàn Liên hợp quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2003 thì
định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là" Khả năng của nước đó đạt được
những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt đựơc các tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tổn sản phẩm quốc nội
(GDP) tính trên đầu người theo thời gian.
Từ những định nghĩa và các cách hiểu không giống nhau trên có thể rút ra các điểm
hội tụ chung sau đây.
Cạnh tranh là cố gắng nhằm giành lấy phần hơn phần thắng về mình trong môi
trường cạnh tranh. Để có cạnh tranh phải có các điều kiện tiên quyết sau:
- Phải có nhiều chủ thể cùng nhau tham gia cạnh tranh: Đó là các chủ thể có cùng
các mục đích, mục tiên và kết quả phải giành giật, tức là phải có một đối tượng mà
chủ thể cùng hớng đến chiếm đoạt. Trong nền kinh tế, với chủ thể canh tranh bên
bán, đó là các loại sản phẩm tưng tự có cùng mục đích phục vụ một loại nhu cầu
của khách hàng mà các chủ thể tham gia canh tranh đều có thể làm ra và đợc người
mua chấp nhận. Còn với các chủ thể cạnh tranh bên muc là giành giật muc được các
sản phẩm theo đúng mong muốn của mình.
- Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh tranh cụ thể, đó là
các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ. Các ràng
buộc này trong cạnh tranh kinh tế giữa các dianh nghiệp chính là các đặc điểm nhu
cầu về sản phẩm của khách hàng và các ràng buộc của luật pháp và thông kệ kinh
doanh ở trên thị trường. Còn giữa người mua với người muc, hoặc giữa những
người mua và người bán là các thoả thuận được thực hiện có lợi hơn cả đối với
người mua.
- Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không cố định hoặc ngắn
(từng vụ việc) hoặc dài (trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của mỗi chủ thể
tham gia cạnh tranh). Sự cạnh tranh có thể diễn ra trong khoảng thời gian không
nhất định hoặc hẹp (một tổ chức, một địa phương, một nghành) hoặc rộng (một
nước, giữa các nứơc)
Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi nhưng
đến nay vẫn là khái niệm chung chung và khó đo lường, theo từ điển thuật ngữ kinh
tế học, “năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần
của đồng nghiệp”.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa: “năng lực
cạnh tranh là khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu
vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững”.
Để tạo dựng và phát triển năng lực cạnh tranh một cách có hiệu quả cần phân định
rõ năng lực cạnh tranh ở mỗi cấp độ khác nhau. Trên lý thuyết cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh được tiếp cận trên 5 cấp độ: Toàn cầu, quốc gia, ngành, doanh
nghiệp, sản phẩm.
* Quốc gia: Năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì
mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế tương đối bền vững cà các
đặc trưng kinh tế khác.
* Ngành: Khả năng của một ngành tồn tại và phát triển bền vững, các đặc
trưng kinh tế, khi các quá trình kinh tế nội sinh thay thế lẫn nhau.
* Doanh nghiệp: Khả năng bù đắp chi phí duy trì lợi nhuận được đo bằng thị
phần của sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp đó trên thị trường.
Các doanh nghiệp của Việt Nam có đặc trưng đều chủ yếu là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các điều kiện về vốn, năng lực công nghệ và thị trường vẫn còn
thấp, điều này đã cản trở nhiều cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhưng mặt
khác, đối với các doanh nghiệp nhỏ khi môi trường kinh doanh mở cửa tính đa dạng
của nhu cầu cũng tạo ra nhiều nhóm khách hàng có nhu cầu tại chỗ riêng biệt để
chuyển đổi, hơn nữa các doanh nghiệp vừa cà nhỏ thường có tính linh hoạt cao, dễ
thích nghi với các điều kiện kinh tế chính trị thay đổi. Như vậy, bên cạnh những
mặt hạn chế, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể phát huy những lợi thế về tính
độc đáo đơn nhất và đáp ứng các nhu cầu tại địa phương mình.
Một số chỉ số so sánh năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp:
- Chỉ số về công suất: năng suất lao động tổng hợp, năng suất lao động của
từng nhân tố cấu thành nên sản phẩm.
- Chỉ số về công nghệ: chi phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, mức
độ hiện đại hóa các máy móc thiết bị…
- Chỉ số đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh, chính sách marketing
+ Sản phẩm: Chất lượng sản phẩm, sự khác biệt giữa các sản phẩm như thế
nào, giá trị thương hiệu, mức độ cải tiến, mức độ phát triển và cung ứng những sản
phẩm mới.
+ Giá: độ linh hoạt, sự mềm dẻo trong các quyết định điều chỉnh giá…
+ Hình thức tiêu thụ và phân phối sản phẩm: Thiết kế và kiểm soát các kênh
phân phối, hạ tầng cơ sở tại các kênh phân phối, hiệu quả hoạt động tại đó…
+ Các dịch vụ hỗ trợ xúc tiến khuyếch trương sản phẩm: Khuyến mại, quảng
cáo sản phẩm…
- Chính sách đánh giá sự ổn định, nguồn cung ứng đầu vào và những nhân tố
ảnh hưởng khác:
+ Sự tin tưởng của khách hàng
+ Sự tin cậy của nhà cung cấp
+ Chuyên môn hóa sản phẩm
+ Tổ chức sản xuất
+ Năng lực R&D
+ Kĩ năng của nhân viên
+ Năng lực nghiên cứu thị trường
+ Giao hàng đúng hạn
+ Sự hỗ trợ của chính phủ
+ Mạng lưới phân phối
+ Năng lực tổ chức
+ Cấu trúc sở hữu
+ Dịch vụ sau bán
2.Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
2.1.Yếu tố bên ngoài
* Sự cạnh tranh giữa các hãng: số lượng, chất lượng sản phẩm của công ty
bạn, cạnh tranh theo tranh giành hay hướng thiện. Dựa vào việc nghiên cứu điều
này, doanh nghiệp sẽ chia các công ty của bạn thành những nhóm chiến lược, từ đó
đề ra các giải pháp cạnh tranh đối với từng nhóm chiến lược.
* Sự gia nhập của các đối thủ tiềm ẩn
* Sức ép của các nhà cung cấp
* Khả năng thay thế của sản phẩm
* Cơ chế hoạt động của Bộ, ngành.
2.2.Yếu tố bên trong
Năng lực tài chính, cơ sở vật chất, nhân sự, marketing, điều hành quản trị
kinh doanh, cơ cấu tổ chức sản xuất, văn hóa tổ chức của công ty, hoạt động R&D,
uy tín, danh tiếng của công ty và sản phẩm do công ty cung ứng đều là những yếu tố
cần quan tâm khi nghiên cứu các yếu tố bên trong ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của công ty.
Như vậy toàn bộ các nhân tố bên trong và bên ngoài này đã tạo ra nguồn sức
mạnh từ bên trong giúp công ty phát triển năng lực cạnh tranh của mình. Điều này
càng được thể hiện rõ trên mô hình chứa giá trị sau:
Mô hình giá trị sản phẩm:
Hệ thống các chỉ số của công ty
Năng lực tài chính
Quản trị nguồn nhân lực
Phát triển khoa học công nghệ
Giá trị
Thể chế hành chính
Hậu
cần
đầu
Tổ chức
SX- KD
Hậu cần
đầu ra
Marketing Dịch vụ
sau bán
vào
(Nguồn: Tạp chí cộng sản số 21 (141) năm 2007)
Theo mô hình này, giá trị gia tăng mà mỗi doanh nghiệp cung ứng cho
khách hàng của mình là sự hợp nhất đầy đủ các bộ phận trên. Vì vậy 1 doanh
nghiệp muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của mình cần phải đáp ứng tốt các nhân
tố trên, mọi giải pháp đưa ra cần gắn liền với các nhân tố trên.
3.Vài nét về ngành thép Việt Nam
3.1.Tầm quan trọng của ngành thép
Sự ra đời của kim loại thép đã góp phần lớn vào quá trình phát triển của loài
người. Kể từ khi công nghệ luyện thép đạt đến tầm cao mới là lúc kết cấu của thép
trở nên vững chắc hơn, thép đã xuất hiện ngày càng nhiều trong các công trình xây
dựng cầu đường, nhà cửa và dần thay thế các nguyên liệu xây dựng khác như đá và
gỗ bởi đặc tính vững chắc và dễ tạo hình của thép. Hơn nữa thép cũng là nguyên vật
liệu chính cho các ngành công nghiệp khác như đóng tàu, phương tiện vận chuyển,
xây dựng nhà máy và sản xuất máy móc thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất, tạo ra
sản phẩm phục vụ đời sống con người.
Nhận biết được tầm quan trọng của ngành thép, hầu hết các quốc gia đều
dành nhiều chính sách ưu đãi để phát triển ngành thép. Bởi thép được coi là nguyên
vật liệu cho các ngành công nghiệp khác. Với mục tiêu đưa đất nước trở thành nước
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã coi ngành sản xuất thép là ngành công
nghiệp trụ cột của nền kinh tế, đáp ứng tối đa nhu cầu về các sản phẩm thép của các
ngành công nghiệp khác và tăng cường xuất khẩu. Bên cạnh đó, Chính phủ dành
nhiều chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư vào ngành thép
nhằm tận dụng tối đa nguồn vốn và nhân lực còn rỗi của các ngành, thúc đẩy phát
triển kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động.
3.2.Lịch sử ngành Thép Việt Nam
Ngành thép Việt Nam manh nha từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX với
mẻ gang đầu tiên của khu liên hiệp gang thép Thái Nguyên do phía Trung Quốc trợ
giúp. Mặc dù năm 1963 mẻ gang đầu tiên được ra đời những mãi đến năm 1975,
Việt Nam mới có được sản phẩm thép cán. Sau đó, thời kỳ 1976- 1989 là thời gian
mà ngành thép không có bước tiến đáng kể, chỉ phát triển ở mức cầm chừng.
KHÁCH
HÀNG
Nguyên nhân của sự phát triển cầm chừng này phải kể đến tình hình khó khăn của
nền kinh tế, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng, nông nghiệp được ưu tiên trước
nhất. Bên cạnh đó, Việt Nam là nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, được ưu tiên
nhập khẩu thép với giá rẻ từ Liên Xô cũ và các nước XHCN khác. Do thép nhập
khẩu rẻ hơn nhiều so với sản xuất trong nước nên Việt Nam chọn phương án nhập
khẩu thép để đáp ứng nhu cầu trong nước, vì vậy mà ngành thép không phát triển.
Sản lượng chỉ duy trì ở mức 40.000- 85.000 tấn/năm.
Do thực hiện chủ trường đổi mới kinh tế và chính sách mở cửa của Chính
phủ, thời kỳ 1989- 1995, ngành thép đã bắt đầu có bước tăng trưởng đáng kể, sản
lượng thép sản xuất trong nước vượt ngưỡng 100.000 tấn/năm. Đánh dấu sự phát
triển vượt bậc của ngành thép là sự ra đời của Tổng công ty Thép Việt Nam vào
năm 1990. Tổng công ty được thành lập với mục đích thống nhất quản lý ngành
thép quốc doanh trong cả nước. Thời kỳ này, ngành Thép Việt Nam như được thay
da đổi thịt, xuất hiện nhiều dự án đầu tư theo chiều sâu và liên doanh với đối tác
nước ngoài được thực hiện. Ngành Thép Việt Nam cũng thu hút được sự quan tâm
từ các ngành trọng điểm khác của nền kinh tế như ngành cơ khí, xây dựng, quốc
phòng…tham gia đầu tư dự án nhỏ sản xuất thép để phục vụ sự phát triển của chính
ngành mình. Sản lượng thép cán của ngành Thép năm 1995 đạt 450.000 tấn/năm,
tương đương tăng gấp 4 lần so với năm 1990. Theo mô hình tổng công ty 91, tháng
4/1995, Tổng công ty Thép Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất giữa Tổng
công ty Thép Việt Nam và Tổng công ty kim khí.
Giai đoạn 1996- 2000, ngành Thép Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao và
có nhiều dự án đầu tư mới theo chiều sâu, có thêm 13 dự án liên doanh, trong đó có
12 nhà máy liên doanh cán thép và gia công chế biến sau cán. Năm 2000, ngành
Thép đạt sản lượng 1,57 triệu tấn.
Từ năm 2000 trở đi, do tác động của chính sách mở cửa và hội nhập nền
kinh tế, Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ tiềm năng thu hút nhiều dự án
đầu tư từ phía đối tác nước ngoài. Theo đó nhu cầu về thép xây dựng cũng như thép
dung trong các ngành công nghiệp khác tăng. Các doanh nghiệp Việt Nam có điều
kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư theo chiều sâu các dự án nhằm
đáp ứng tối đa cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong một vài năm qua, nhu cầu
thép của Việt Nam đều tăng ở mức 2 con số mỗi năm. Đáp ứng mức tăng ấy, sản
lượng sản xuất thép của các doanh nghiệp trong nước tăng mạnh theo từng năm.
Tuy nhiên, thực trạng gần đây cho thấy m ngành thép vẫn chưa đủ cầu, sản xuất
thép trong nước chưa đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước, với ngành đóng tàu,
dường như phải nhập nguyên liệu hoàn toàn do trình độ kỹ thuật trong nước không
đáp ứng được yêu cầu chất lượng.
3.3.Đặc điểm ngành Thép Việt Nam
Cũng giống với các nước đang phát triển khác, sự phát triển của ngành Thép
Việt Nam bị coi là đi theo chiều ngược khu công nghiệp cán có trước công nghiệp
luyện, phần lớn do hạn chế về vốn đầu tư, do chính sách phát triển ngành. Ý kiến
khác lại cho rằng ngành Thép sở dĩ phát triển ngược là do Việt Nam không có chính
sách bảo hộ đúng mức cho phần gốc là luyện phôi thép, nên mặc dù thời gian gần
đâu ngành Thép phát triển được là nhờ nguồn phôi nhập khẩu, không tận dụng được
lợi thế giàu tài nguyên của Việt Nam.
Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thép đến năm 2010 ban hành năm
2001, đặt ra năm 2005 ngành Thép đạt sản lượng sản xuất 1,2- 1,4 tấn phôi thép;
2,5- 3,0 tấn thép các loại; 0,6 triệu tấn sản phẩm thép gia công sau cán. Kế hoạch
đến năm 2010 ngành Thép sẽ đạt sản lượng sản xuất 1,8 triệu tấn phôi thép; 4,5- 5,0
triệu tấn thép cán các loại và 1,2 – 1,5 triệu tấn sản phẩm thép gia công sau cán.
Tính đến hết 2007, về căn bản ngành thép Việt Nam đã đạt được chỉ tiêu so
với kế hoạch đề ra. Sản lượng phôi thép năm 2007 đạt 782.000 tấn, thép cán đạt 2,2
triệu tấn, thấp hơn so với quy hoạch phát triển ngành phải đạt đến năm 2005. Tuy
rằng sản lượng mục tiêu chưa đạt được nhưng sản lượng thép tiêu thụ trong nước
năm 2007 đã tăng từ 10- 14% so với mức tiêu thụ năm 2006. Năm 2007, mức bình
quân về tiêu thụ thép của Việt Nam đạt xấp xỉ 100 kg/người/năm, mức được coi là
điểm khởi đầu giai đoạn phát triển công nghiệp các quốc gia. Mức tiêu thi này đã
vượt xa dự báo về mặt tăng trưởng, đưa Việt Nam trở thành thị trường có mức tiêu
thụ thép cao nhất thế giới.
Cuối năm 2007 và đầu năm 2008 do bùng nổ của xây dựng, giá thép trên thị
trường Thép thế giới tăng nhanh chóng. Tại Việt Nam , giá thép thời gian này tăng
gấp 4 lần so với thời gian trước đó và có lúc lên đến 18 triệu VND/tấn. Giá thép
tăng đẩy giá nhà thầu xây dựng và người tiêu dụng khốn đốn, ảnh hưởng nhiều đến
nền kinh tế.
Tuy có bước chuyển biến đáng kể trong phát triển ngành Thép nhưng ngành
Thép Việt Nam lại lệ thuộc 60% vào phôi thép thế giới. Nguồn tài nguyên trong
nước chưa tận dụng được, các sản phẩm Thép phục vụ hoạt động quốc phòng, đóng
tàu Việt Nam chưa thể sản xuất được và phải nhập khẩu từ nước ngoài. Việt Nam
được coi là nước có thuận lợi hơn so với một số nước trong khối ASEAN khi có
nguồn quặng sắt, trữ lượng than antraxit lớn. Tuy nhiên do cơ chế chính sách ưu đãi
thúc đẩy xây dựng nhà máy phôi còn hạn chế và do vốn đầu tư xây dựng nhà máy
luyện phôi luôn cao hơn nhiều lần so với cán thép. Hạn chế sự phụ thuộc vào phôi
thép thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam dùng tới biện pháp là nhập phế liệu từ
nước ngoài về và sử dụng phế liệu cũ để tạo phôi thép. Chính vì vậy mà công nghệ
cán có trước công nghệ luyện. Đây là hướng đi tích cực khi nhà nước chưa có nhiều
chính sách ưu đãi thúc đẩy công nghệ sản xuất phôi thép. Ngành Thép Việt Nam
vẫn ở tình trạng phân tán, thiếu bền vững. Sản phẩm các doanh nghiệp làm ra dùng