Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Dấu ấn văn hóa miền núi trong văn xuôi của đỗ bích thủy
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐINH THỊ THU HOÀI
DẤU ẤN VĂN HÓA MIỀN NÚI
TRONG VĂN XUÔI CỦA ĐỖ BÍCH THÚY
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60.22.34
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng - Năm 2012
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ HƯỜNG
Phản biện 1: TS. TÔN THẤT DỤNG
Phản biện 2: TS. CAO THỊ XUÂN PHƯỢNG
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn
thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học
Đà Nẵng vào ngày 01 tháng 12 năm 2012.
* Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Miền núi luôn là vùng đất lí tưởng cho văn chương nghệ
thuật đào sâu, khai thác. Lịch sử văn học từ rất sớm, đã ghi nhận
thành tựu của những cây bút viết về miền núi như Lan Khai, Nguyên
Ngọc, Tô Hoài , Ma Văn Kháng… Tiểu thuyết của Lan Khai đã góp
công “khai phá, vạch lau rẽ cỏ cho cánh rừng già”. Tiếp đó, Tô Hoài,
Nguyên Ngọc đã ngược lên miền cao và ra đời hàng loạt tác phẩm.
Chính họ đã làm nên bước tiến của văn xuôi viết về miền núi.
Sau năm 1975, văn học vùng cao đã bước sang một trang
mới. Văn học đề tài miền núi lúc này đã có sự góp sức của những con
người đại diện cho sức trẻ như: Vũ Xuân Tửu, Đỗ Bích Thúy, Sa
Phong Ba, Cao Duy Sơn, Niê Thanh Mai, Linh Nga Niê Kdăm, Hlinh
Niê, Phạm Duy Nghĩa..., trong đó có cả những cây bút là người dân
tộc thiểu số. Các sáng tác về đời sống vùng cao đã đạt được một số
những thành tựu đáng kể. Văn xuôi về đề tài miền núi đã góp một
phần không nhỏ trong việc đa dạng hoá đề tài, làm phong phú diện
mạo văn học Việt Nam đương đại.
1.2. Đỗ Bích Thúy là một trong những nhà văn đại diện cho
sức trẻ của miền núi. Sinh ra và lớn lên vào thời đại nhịp sống hối hả
quay cuồng nhưng vùng cao vẫn luôn là tiếng gọi không ngừng thôi
thúc trái tim chị tìm về và cống hiến. Bằng tài năng và tâm huyết của
mình, Đỗ Bích Thuý đã lần lượt cho ra mắt bạn đọc nhiều tác phẩm
có giá trị cả về nội dung lẫn nghệ thuật sáng tác. Viết về chính quê
hương máu thịt của mình, văn xuôi của Đỗ Bích Thuý kết tinh những
nét đặc sắc về con người và văn hoá miền núi.
Tìm hiểu Dấu ấn văn hoá miền núi trong văn xuôi Đỗ
Bích Thúy là công việc có ý nghĩa trong việc khẳng định một tên
tuổi đã cống hiến hết mình cho vùng đất phía Tây Bắc tổ quốc. Qua
đó, chúng ta có cái nhìn rõ nét hơn, hiểu sâu sắc hơn về con người và
văn hóa miền núi, tạo thuận lợi để tiếp cận và hiểu rõ hơn về một
vùng văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình, bài báo đề cập đến yếu tố văn hóa
trong văn học về đề tài miền núi
Phạm Duy Nghĩa trong bài Cốt truyện trong văn xuôi dân tộc
và miền núi in trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 11 năm 2008, đã
khái quát rất rõ về vấn đề cốt truyện trong văn xuôi viết về đề tài
miền núi. Sau đó, ở bài viết Diện mạo văn xuôi đương đại về dân tộc
và miền núi của tác giả Phạm Duy Nghĩa trên Tạp chí Văn nghệ quân
đội cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 2010, các tác giả Đỗ Bích Thúy,
Cao Duy Sơn, Bùi Thị Như Lan đã được đề cập đến như các thành
viên trong hàng ngũ nhà văn đương đại Việt Nam. Tác giả Đặng Văn
Lung trong bài viết: Giữ gìn và phát triển văn nghệ truyền thống của
các dân tộc thiểu số Việt Nam đã chỉ rõ thấy tầm quan trọng cuả nền
văn hóa các dân tộc thiểu số và vấn đề được đặt ra ở đây là cần phải
giữ gìn và phát huy nó. Đinh Văn Định trong bài viết Văn học các
dân tộc thiểu số mười năm qua với vấn đề truyền thống và hiện đại
(Tạp chí văn học 5/1986) khẳng định tầm vóc và sức sống của nền
văn học dân tộc thiểu số trong sự gắn bó mật thiết với văn hóa dân
tộc. Ở bài viết Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà thơ
dân tộc thiểu số (in trên Tạp chí Văn hóa dân gian các dân tộc ít
người ở Việt Nam, 1993), tác giả Nguyễn Duy Bắc đã chỉ ra hai đặc
trưng cơ bản của văn hóa- văn học hiện đại của các dân tộc thiểu số
đó là : “Sự gắn bó hết sức sinh động, sâu sắc và rõ nét bản sắc dân
tộc trong sáng tác nghệ thuật”.
2.2. Những công trình, bài báo đề cập dấu ấn văn hóa miền
núi trong văn xuôi của Đỗ Bích Thúy
Tạp chí Văn nghệ quân đội, số ra ngày 27/6/2009, nơi Đỗ
Bích Thúy công tác, cũng đã từng nhận định rằng từ cuộc sống yên ả
thanh bình của những con người chân chất vùng cao, bằng đời văn
quan sát tinh tế và những rung cảm chân thật của lòng mình, Đỗ Bích
Thúy góp nhặt để làm nên Vẻ đẹp một cây bút vùng cao (Bình
NguyênTrang, Blog Yahoo!360, 07/07/2006).
Nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị, trong cảm nhận “Từ
truyện ngắn một người viết trẻ” qua Lời giới thiệu tập truyện ngắn
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy đã sớm phát hiện cái
mạch nguồn chảy tràn qua mỗi sáng tác của nhà văn nữ này. Mặc dù
Lê Thành Nghị không đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm của Đỗ Bích
Thúy dưới góc nhìn văn hóa nhưng đã chỉ ra những đối tượng mà
sáng tác của Đỗ Bích Thúy thường hướng tới. Đó là một bức tranh
văn hóa miền núi phong phú. Theo Nguyễn Xuân Thuỷ trong bài Nhà
văn Đỗ Bích Thuý và một miền kí ức: “Quê hương luôn là vùng miền
lưu dấu, mang sắc màu chủ đạo của ký ức, gắn với mỗi người như
một sợi dây vô hình. Với Đỗ Bích Thúy, thì còn một sợi dây hữu
hình là căn nhà mái ngói rêu phong trong thung lũng ba mặt là núi,
một mặt là sông ở huyện Vị Xuyên, Hà Giang. Nơi ấy có bản người
Dao, người Tày, có những người phụ nữ Mông nhẫn nại và cam chịu
đã đi vào những trang văn của chị” (www.anninhthudo.vn, ngày đăng
26/09/2011).
Trong bài viết Đọc tiểu thuyết Bóng của cây sồi của Đỗ Bích
Thuý, Nguyễn Thị Thu Hiền nhận định: “Phải sống, cảm nhận sâu sắc
đời sống, tâm hồn người dân miền núi, hiểu đồng bào như hiểu mình
mới có được những dòng như vậy- những dòng như viết cho chính
mình, cho dân tộc mình chứ không phải đứng trong vai dân tộc khác
nhìn vào” (http//: www.vanchuongviet.org, ngày đăng 06/03/2006).
Dẫu có nhiều bài viết đề cập đến văn hoá miền núi trong tiểu
thuyết và truyện ngắn Đỗ Bích Thuý, nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống về Dấu ấn văn hoá miền núi trong văn
xuôi Đỗ Bích Thuý.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn xuôi (chủ yếu là
tiểu thuyết và truyện ngắn) viết về miền núi của Đỗ Bích Thuý, cụ
thể là các tác phẩm sau đây: Tiểu thuyết Bóng của cây sồi; Truyện
vừa Người đàn bà miền núi, Các tập truyện ngắn Sau những mùa
trăng, Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Tiếng đàn môi sau bờ
rào đá, Mèo đen và khảo sát thêm Tạp văn Trên căn gác áp mái .
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trọng tâm nghiên cứu của luận văn là biểu hiện của văn hoá
miền núi trong tác phẩm của Đỗ Bích Thuý trên bình diện cảm quan
hiện thực và con người lẫn phương thức biểu hiện. .
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống- cấu trúc:
- Phương pháp so sánh (đồng đại, lịch đại
5. Đóng góp của đề tài
- Luận văn góp phần cung cấp một cái nhìn rõ nét, hệ thống
hơn về con người và văn hóa miền núi trong tác phẩm của Đỗ Bích
Thuý.
- Khẳng định phong cách của một nhà văn nữ tâm huyết với
đề tài miền núi; sự đóng góp của Đỗ Bích Thuý vào thành tựu của
văn học miền núi sau 1975.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Văn xuôi Đỗ Bích Thúy- những trang viết về núi
rừng
Chương 2: Cảm quan về con người và văn hóa miền núi
trong văn xuôi Đỗ Bích Thúy
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện con người và văn hóa miền
núi trong văn xuôi Đỗ Bích Thúy
Chương 1
VĂN XUÔI ĐỖ BÍCH THUÝ
– NHỮNG TRANG VIẾT VỀ NÚI RỪNG
1.1. Đỗ Bích Thúy – người con của núi
Nhà văn Đỗ Bích Thúy quê gốc ở tỉnh Nam Định. Chị sinh
vào ngày 13 tháng 4 năm 1975, tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
Lớn lên trong một vùng văn hóa với điệp trùng núi cao, cây cỏ, hoa
lá, thiên nhiên núi rừng hoang dã đã trở thành một phần tâm hồn của
nhà văn và qua tâm hồn tinh tế và chan chứa yêu thương của chị đã đi
vào văn chương làm nên một bức tranh vô cùng đặc sắc.
Nặng món nợ ân tình với mảnh đất Hà Giang, Đỗ Bích Thúy
đã viết như một nhu cầu cần thiết của nội tâm. Hơn ai hết chị hiểu
quê mình, thấu hiểu người dân quê mình, hiểu để rồi thể hiện bằng
cách trải lòng mình trên từng trang viết.
Nếu như Tô Hoài là nhà văn Hà thành viết về Tây Bắc,
Nguyên Ngọc là nhà văn đất Quảng viết về Tây Nguyên thì Đỗ Bích
Thúy là đứa con của núi viết về quê hương mình; giữa lòng thủ đô Hà
Nội chị vẫn viết “dưới bóng cây sồi”, viết bằng tâm huyết, bằng tấm
lòng người con hướng về quê mẹ.
1.2. Mảnh đất Hà Giang- ngọn nguồn sáng tạo trong văn xuôi Đỗ
Bích Thuý
Những năm gần đây, việc phân vùng văn hóa trong lãnh thổ
Việt Nam được nhiều học giả bàn đến .Trong đó, cách phân chia sáu
vùng của Trần Quốc Vượng được xem là hợp lí nhất. Theo sự phân
chia này thì Hà Giang nằm trong vùng văn hóa Việt Bắc. Đây là
vùng núi non hiểm trở bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân của vùng chủ
yếu là người Tày, Nùng trong trang phục giản dị, với lễ hội Lồng
Tồng nổi tiếng.
Hà Giang là một vùng đất với đặc trưng là đồi núi thấp, các
dãy núi hình cánh cung, diện tích đất rộng lớn. Tuy là vùng còn rất
nhiều khó khăn thiếu thốn, nhưng đây cũng chính là mảnh đất được
thiên nhiên vô cùng ưu đãi với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, nhiều
núi cao, nhiều hang động độc đáo.
Am hiểu đời sống cư dân ở Hà Giang, những trang viết của
Đỗ Bích Thuý thấm đẫm tình người và đa dạng các vùng văn hoá. Từ
Lễ cúng thần rừng của người Pu Péo; Lễ hội cầu mùa của dân tộc
Dao. Lễ cấp sắc của dân tộc Dao, Lễ hội Gầu tào của dân tộc Mông
đến nhưng phong tục, tập quán; trang phục, ẩm thực… ở mảnh đất
Hà Giang đều hiện lên sinh động qua những trang văn mượt mà của
nhà văn. Đỗ Bích Thuý đã bắc một cây cầu nối hai vùng xuôi- ngược,
đưa độc giả đến khám phá một vùng văn hóa điệp trùng núi cao cây
cỏ, hoa lá, hoang sơ và hùng vĩ.
1.3. Hành trình sáng tác của Đỗ Bích Thúy
Đỗ Bích Thúy là thế hệ nhà văn trẻ khám phá và đưa bức
tranh miền núi rực rỡ sắc màu bước vào văn học sau những năm
1975. Năm 19 tuổi, Đỗ Bích Thúy đã bén duyên văn chương bằng
truyện ngắn đầu tay Chuỗi hạt cườm màu xám in trên Báo Tiền
Phong. Truyện ngắn đầu tiên có vai trò như một cú hích và là bước
ngoặt quan trọng, đã mở ra cho đời chị một hướng đi mới để trở
thành nhà báo, nhà văn.
Cho đến nay, Đỗ Bích Thuý đã có trong tay số lượng tác
phẩm tương đối nhiều như tập truyện ngắn Sau những mùa trăng
(2001), Những buổi chiều ngang qua cuộc đời (2002), Tiếng đàn môi
sau bờ rào đá (2005) và tập truyện vừa Người đàn bà miền núi
(2008)… Mỗi tác phẩm của Đỗ Bích Thuý là một tiếng lòng, một sợi
dây gắn chặt tâm hồn nhà văn với quê hương. Nó gánh được linh
hồn, dáng vóc, hơi thở, màu sắc, mùi vị... của miền núi cao; Nó là
một bức thông điệp chuyển tải được nhiều nhất những điều tôi muốn
nói, cũng như những dấu ấn cá nhân, khát vọng và tấm tình của một
đứa con đã đi ra khỏi nhà”.
Bóng của cây sồi là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Đỗ Bích
Thuý. Tác phẩm đã đoạt giải ba cuộc thi Văn học cho tuổi trẻ do
NXB Thanh niên và Hội nhà văn Việt Nam tổ chức năm 2005. Bóng
của cây sồi phản ánh đời sống của người Dao trong sự xâm lấn của
kinh tế thị trường.
Về sau Đỗ Bích Thúy lại tiếp tục cho ra mắt bạn đọc tập
truyện ngắn Mèo đen (2011). Tác phẩm vẫn đề cập đến hiện thực
cuộc sống nơi vùng cao đá núi và thông điệp mà chị muốn nhắn nhủ
là: sự phát triển của xã hội vùng cao đang có nguy cơ, nhuốm màu
sắc thị trường. Cần phải có một giải pháp cho sự phát triển bền vững,
để hiện đại tiên tiến nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc, bản sắc vùng
miền.
Đỗ Bích Thúy cũng viết sách cho thiếu nhi. Chị cho ra mắt
bạn đọc cuốn sách có nhan đề Em Béo và hội Cầu Vồng. Tác phẩm
chỉ gần trăm trang gồm những mẩu chuyện nho nhỏ về hội Cầu
Vồng. Trong hội gồm sáu bạn nhỏ lớp 2, trong đó có Em Béo, anh
chàng duy nhất của hội. Vui có, buồn có, dở khóc dở cười cũng có,
tác phẩm "nói" bằng tâm hồn và suy nghĩ của chính trẻ con này có
thể gợi mở nhiều điều về sự khơi dậy của dòng văn học viết cho thiếu
nhi hôm nay…
Tạp văn của Đỗ Bích Thuý cũng tập trung viết về miền núi,
về những trăn trở trước những vấn đề thời sự ở một vùng văn hóa hóa
mới. Đọc Trên căn gác áp mái của Đỗ Bích Thúy gần đây ta có thể
hiểu được phần nào suy tư của một nhà văn nữ. “Quê hương bản
quán và trách nhiệm, tấm lòng của mỗi cá nhân” là vấn đề được lặp
lại nhiều lần trong sách.
Đỗ Bích Thúy cũng thử sức mình trong lĩnh vực làm kịch
bản sân khấu.Vở diễn Diễm 500 USD của chị do Nhà hát Tuổi trẻ dàn
dựng, khi ra mắt công chúng cũng đã nhận được sự đón chào vô cùng
nồng nhiệt.
Trong hành trình sáng tác, Đỗ Bích Thúy vẫn luôn thủy
chung với đề tài miền núi. Đã từng thừa nhận mình là nhà văn “viết
không mới, viết những điều gần như đã cũ” nhưng phải thừa nhận
rằng tác phẩm viết về miền núi của chị không hoang sơ, huyền bí,
hoang đường như truyện đường rừng trước 1945; không đậm chất sử
thi như văn học viết về miền núi từ 1945- 1975, mà ngồn ngộn bao
nhiêu chất liệu đời thường, ngòi bút nhà văn đã khơi sâu vào thế giới
đời tư phong phú.
Nhìn chung, văn xuôi của Đỗ Bích Thúy đều thể hiện ý thức:
trang viết phải không chỉ mang theo không chỉ hơi thở đời sống mà
còn mang theo một vùng văn hóa.
Chương 2
CẢM QUAN VỀ CON NGƯỜI VÀ VĂN HOÁ MIỀN NÚI
TRONG VĂN XUÔI CỦA ĐỖ BÍCH THUÝ
2.1. Con người miền núi- một biểu hiện của văn hoá vùng cao
2.1.1. Vẻ đẹp văn hoá của con người miền núi
2.1.1.1. Trong các mối quan hệ nghĩa tình
Trong tình yêu, hôn nhân, gia đình người miền núi thể hiện
vẻ đẹp chân chất. Tác phẩm của Đỗ Bích Thúy đề cập nhiều đến vẻ
đẹp của văn hóa trong tình yêu, đến những con người thiếu thốn,
khốn khổ về thân xác nhưng hơi ấm hạnh phúc của tình yêu vẫn soi
sáng và nâng niu họ vượt qua mọi gian nan để vươn lên, sinh tồn. Cột
đá treo người có những giây phút tràn ngập trong hạnh phúc tình yêu.
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá có những run rẩy, ngập ngừng của tình
yêu. Từ quan niệm về tình yêu, hôn nhân của mình, con người miền
núi đã tạc riêng một tính cách cao đẹp, có nhiều điều đáng phải trân
trọng và phát huy trong đời sống xã hội hiện nay.
Không chỉ đẹp trong tình yêu hôn nhân, người vùng cao
luôn sẵn lòng dành cho người thân của mình những tình cảm dạt dào,
sâu thẳm (Giống như cái cối nước). Không chỉ có tình cảm yêu
thương giữa cha mẹ với con đẻ, ngòi bút của Đỗ Bích Thúy còn đưa
bạn đọc đến với tình cảm của người cha, người mẹ đối với những đứa
con riêng của vợ, chồng mình (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Gió
không ngừng thổi). Đến cả mối quan hệ cũng không kém phần phức
tạp như quan hệ chị dâu em chồng cũng được Đỗ Bích Thúy thể hiện
qua cái nhìn nhân hậu (Lặng yên dưới vực sâu).
Đối với cộng đồng, người miền núi còn rất đẹp ở tấm lòng
hiếu khách. Một người khách đến nhà, dù xa hay gần, thân hay sơ
cũng đều được chào đón một cách nồng nhiệt (Mần tang mọc trong
thung lũng). Sự mến quý khách không chỉ xuất hiện ở vùng đồng bào
dân tộc phía Bắc mà dường như là đặc trưng của tất cả những người
dân tộc thiểu số trên khắp đất nước Việt Nam. Với người Tây
Nguyên, có một người khách đến cả làng rộn ràng lắm, khách được
coi như là khách của cả làng. Người vùng cao nương náu thân mình
giữa đại ngàn hoang vu, cây rừng, gió núi. Họ làm bạn với muông
thú và cây rừng. Có khách đến, thì vui lắm, mừng lắm, cả nhà phải
vui lên thôi, để khách được ấm lòng khi ra về và sớm có ngày quay
lại. Từ cách cư xử thường ngày của mình, con người miền núi đã tạo
ra được một nét đặc trưng rất riêng, rất đẹp, không lẫn vào đâu được.
Sống trong đá, chết cũng vùi trong đá, từ đá núi gian nan
vươn lên để sinh tồn, người miền núi dành rất nhiều tình cảm cho
hàng xóm láng giềng để cùng nương tựa lẫn nhau trong hoàn cảnh
khắc nghiệt để tồn tại và phát triển (Gió không ngừng thổi, Mần tang
mọc trong thung lũng).
Không chỉ đẹp trong mối quan hệ với người còn đang sống,
mà người miền núi còn rất tình nghĩa với cả những người đã khuất.
Khi một gia đình trong bản có tang thì quan tài được giữ lại trong nhà
để thể hiện niềm thương tiếc của người sống dành cho người chết
(Bóng của cây sồi, Như một con chim nhỏ, Đêm cá nổi)…
2.1.1.2. Trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
Con người miền núi sống giữa núi cao vực sâu hòa mình vào
thiên nhiên cây cỏ. Họ dựa vào thiên nhiên mà lao động, mà chiến
đấu để sinh tồn. Thiên nhiên cũng đóng góp một phần nuôi dưỡng thể
chất, bồi đắp tình cảm và thanh lọc tâm hồn họ. Sự hùng vĩ, uy nghi
của núi rừng đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh của con người,
nhất là người đàn ông. Điều này ta có thể thấy rõ qua tiểu thuyết