Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đánh giá chất lượng cuyộc sống của người lao động nhập cư làm việc tại các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Đức Hòa
PREMIUM
Số trang
85
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1218

Đánh giá chất lượng cuyộc sống của người lao động nhập cư làm việc tại các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Đức Hòa

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HVTH: Giáp Thành Công-ME7 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Lý do nghiên cứu

Huyện Đức Hòa là một trong những huyện nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của

tỉnh Long an. Do đó, được Lãnh đạo các cấp từ Trung ương đến tỉnh, huyện quan tâm quy

hoạch phát triển công nghiệp – thương mại – dịch vụ và dân cư đô thị trên địa bàn huyện.

Tính đến nay, trên địa bàn huyện, diện tích đất công nghiệp được phê duyệt quy hoạch là

7.144 ha, gồm có 10 Khu công nghiệp, trong đó có 07 khu công nghiệp đang triển khai

hoạt động với diện tích 5070 ha, 03 Khu công nghiệp chưa triển khai thực hiện diện tích

932 ha, thu hút hơn 550 nhà đầu tư thứ cấp đăng ký vào các khu công nghiệp tập trung và

đã có khoảng 220 nhà máy đã đi vào hoạt động sản xuất, hàng năm đã đóng góp hàng trăm

tỷ đồng vào ngân sách huyện và tỉnh đã góp phần tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

Cụ thể, bao gồm các Khu: Khu công nghiệp Đức Hòa 1, xã Đức Hòa Đông; Khu

công nghiệp Đức Hòa 2 (Xuyên á), xã Mỹ Hạnh Bắc và Mỹ Hạnh Nam; Khu công nghiệp

Đức Hòa 3, xã Mỹ Hạnh Bắc và xã Đức Lập Hạ; Khu công nghiệp Tân Đô, xã Đức Hòa

Hạ; Khu công nghiệp Hải Sơn, xã Đức Hòa Hạ; Khu công nghiệp Tân Đức, xã Đức Hòa

Hạ; Khu Công nghiệp Nam Thuận, xã Đức Hòa Đông; Khu công nghiệp DNN Tân Phú, xã

Tân Phú; Khu công nghiệp Thế kỹ, xã Hựu Thạnh; Khu công nghiệp IDICO, xã Hựu

Thạnh (UBND huyện Đức Hòa, 2015).

Cùng với sự phát triển công nghiệp kéo theo rất nhiều vấn đề cần giải quyết như:

tái định cư, ô nhiễm môi trường, nhà ở cho lao động nhập cư, kết cấu hạ tầng, y tế, giáo

dục… Đây là những vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người công nhân,

Hiện nay trên địa bàn huyện Đức Hòa có tổng số lao động làm việc tại các doanh

nghiệp trong các khu công nghiệp là 125.290 người, trong đó lao động nhập cư là 25.215

người (Chi cục thống kê Đức Hòa, 2015). Về điều kiện và hoàn cảnh sống của lao động

nhập cư phần lớn khó khăn hơn lao động tại chổ, khó hơn về chổ ở, sự thích nghi với môi

trường, quan hệ với hàng xóm, quan hệ với chính quyền địa phương, đăng kí hộ

khẩu…Vì vậy, nghiên cứu đánh giá chất lượng cuộc sống người dân nói chung và dân

nhập cư nói riêng là điều cần thiết. Qua đó chính quyền địa phương cần nghiên cứu đề ra

các giải pháp để hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất cho thành phần lao động nhập cư. Đồng

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HVTH: Giáp Thành Công-ME7 2

thời, làm cơ sở để điều chỉnh chính sách quản lý nhằm tiếp tục hướng đến sự phát triển

bền vững, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân nhập cư bởi vì thành phần lao

động này cũng là một phần không nhỏ trong việc góp phần phát triển kinh tế của huyện

nói riêng và cả tỉnh nói chung.

Với lý do trên, tôi chọn đề tài “Đánh giá chất lượng cuộc sống của lao động

nhập cư làm việc tại các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp trên địa bàn

huyện Đức Hòa”, nhằm đánh giá chất lượng cuộc sống người lao động theo thời gian.

Đồng thời, đề tài còn xác định các yếu tố đang tác động xấu đến chất lượng cuộc sống

người lao động, từ đó khuyến nghị các chính sách nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống

người lao động, cũng là mục tiêu của phát triển kinh tế bền vững.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Xác định các yếu tố tác động đến chất lượng cuộc sống người lao động nhập cư làm

việc tại các khu công nghiệp.

So sánh chất lượng cuộc sống trước và sau 2 năm của lao động nhập cư đến làm

việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Đức Hòa

Gợi ý các chính sách nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống người lao động nhập cư

tại các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Đức Hòa

1.3. Câu hỏi nghiên cứu:

Các yếu tố nào ảnh hưởng chất lượng cuộc sống người lao động nhập cư làm việc

tại các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Đức Hòa?

Chất lượng cuộc sống của dân nhập cư trước và sau hai năm đến làm việc tại các

khu công nghiệp trên địa bàn huyện Đức Hòa có thay đổi không?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng cuộc sống của lao động nhập cư làm việc tại

doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Đức Hòa

Đối tượng phỏng vấn: Người lao động nhập cư làm việc tại các khu công nghiệp

huyện Đức Hòa liên tục 2 năm trở lên.

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HVTH: Giáp Thành Công-ME7 3

1.4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu sẽ được thực hiện xung quanh các khu công nghiệp thuộc các xã trên

địa bàn huyện, chủ yếu là các xã vùng trung và vùng hạ của huyện Đức Hòa nơi có nhiều

lao động nhập cư tập trung, cụ thể: xã Đức Hòa Hạ, xã Đức Hòa Đông, xã Mỹ Hạnh

Nam, xã Mỹ Hạnh Bắc và một số xã khác.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành thông qua hai giai đoạn, cụ thể như sau:

Giai đoạn 1: Quá trình nghiên cứu sơ bộ: Nghiên cứu định tính nhằm xác định các

yếu tố ảnh hưởng chất lượng cuộc sống. Trên cơ sở phát triển hệ thống các khái niệm liên

quan đến chất lượng cuộc sống và tham khảo một số nghiên cứu trước đây, luận văn xây

dựng bảng câu hỏi, sau đó thực hiện phỏng vấn thử và trao đổi với chính quyền địa

phương để hiệu chỉnh bảng câu hỏi cho phù hợp với thực tế.

Giai đoạn 2: Sau khi thực hiện giai đoạn phỏng vấn thử, điều chỉnh bảng câu hỏi và

tiến hành nghiên cứu chính thức bằng phương pháp định lượng, thực hiện bằng kỹ thuật

phỏng vấn trực tiếp người lao động nhập cư đang làm việc tại các khu công nghiệp thông

qua bảng câu hỏi. Mẫu được chọn theo phương pháp thuận tiện, số lượng mẫu khoảng

250 lao động nhập cư.

Sử dụng phần mềm MS Excel để nhập dữ liệu và phần mềm SPSS 22.0 để phân tích

dữ liệu.

1.6. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu

Do hiện nay trên địa bàn huyện Đức Hòa, số lượng lao động nhập cư rất lớn với số

lượng 25.215 người (Chi cục thống kê Đức Hòa, 2015), cho nên nghiên cứu nhằm đánh

giá sự chuyển biến chất lượng cuộc sống người lao động tại các khu công nghiệp trên địa

bàn huyện Đức Hòa trong những năm gần đây, để đóng góp một phần vào việc hoàn

thiện khung lý thuyết cho việc nghiên cứu về chất lượng cuộc sống người lao động.

Kết quả nghiên cứu tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, đó

sẽ là những bằng chứng khoa học có tính thuyết phục để những cơ quan có chức năng

hoạch định chính sách, các cấp quản lý có thể sử dụng trong việc giải quyết, cải thiện

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HVTH: Giáp Thành Công-ME7 4

chất lượng cuộc sống người lao động nhập cư góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế -

xã hội ở địa phương.

1.7.Kết cấu của luận văn

Chương 1. Tổng quan nghiên cứu đề tài: Trình bày lý do nghiên cứu, mục tiêu

nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên

cứu và ý nghĩa thực tiển của nghiên cứu

Chương 2. Cơ sở lý thuyết: Trình bày cơ sở lý thuyết, các khái niệm có liên quan,

các lý thuyết về chất lượng cuộc sống, các phương pháp đo lường chất lượng cuộc sống,

tác động của ô nhiểm môi trường và di cư tự do đến chất lượng cuộc sống, các nghiên

cứu trước và đề xuất mô hình nghiên cứu

Chương 3. Phương pháp nghiên cứu: Quy trình nghiên cứu, xây dựng thang đo và

thiết kế bảng câu hỏi, phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu, kỹ thuật phân tích dữ liệu.

Chương 4. Kết quả nghiên cứu: Đây là nội dung chính của đề tài nghiên cứu, nội

dung chương 4 chia thành nhiều phần: Thống kê mô tả đặc điểm cá nhân của đối tượng

khảo sát; Kết quả so sánh sự thay đổi về chất lượng và môi trường sống ở Đức Hòa qua

hai giai đoạn, phân tích cronbach’s alpha, phân tích EFA, phân tích tương quan, phân tích

hồi quy và các kiểm định liên quan đến mô hình.

Chương 5. Kết luận và khuyến nghị: Dựa vào kết quả nghiên cứu khuyến nghị

những chính sách để thực hiện trong thời gian tới nhằm cải thiện cuộc sống của người lao

động.

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HVTH: Giáp Thành Công-ME7 5

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Chương này trình bày các khái niệm liên quan đến chất lượng cuộc sống, lao động

nhập cư, một số nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Thông qua cuộc

sống của người lao động nhập cư hiện nay, với những khó khăn người lao động gặp phải,

từ đó rút ra được mô hình nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của lao động nhập cư tại

các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Đức Hòa.

2.1.Cơ sở lý thuyết

2.1.1.Các khái niệm có liên quan

Theo Bộ luật lao động (2012), người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có

khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý

điều hành của người sử dụng lao động.

Theo Sharma (1990), chất lượng cuộc sống là sự cảm giác được hài lòng (hạnh

phúc) hoặc (thỏa mãn) với những nhân tố của cuộc sống, mà những nhân tố đó được coi

là quan trọng nhất đối với bản thân một con người. Chất lượng là sự cảm giác được hài

lòng với những gì mà con người có được. Theo đó, mức sống của mỗi cá nhân, gia đình

và cộng đồng xã hội được coi là yếu tố quan trọng để tạo ra CLCS.

Di cư, (hiểu theo nghĩa rộng) là sự dịch chuyển bất kỳ của con người trong một

không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn.

Hiểu theo nghĩa hẹp di cư là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn

vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới trong một không gian, thời gian nhất định

(Đinh Văn Thông, 2010).

Quốc Hội (2003) định nghĩa di cư là sự di chuyển dân số từ quốc gia này đến cư

trú ở quốc gia khác, từ đơn vị hành chính này tới cư trú ở đơn vị hành chính khác.

Theo Tổng cục thống kê và Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc (2009), di dân là sự di

chuyển của người dân theo lãnh thổ với những giới hạn về thời gian và không gian nhất

định, kèm theo sự thay đổi nơi cư trú.

Một số quan điểm khác của Tổng cục thống kê và Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc

(2009), như sau:

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HVTH: Giáp Thành Công-ME7 6

- Nơi đi: Còn gọi là nơi xuất cư, là địa điểm cư trú trước khi một người rời đi nơi

khác sinh sống

- Nơi đến: Là điểm kết thúc quá trình di chuyển, là địa điểm mà một người dừng

lại để sinh sống. Nơi và địa điểm ở đây là ám chỉ một lãnh thổ, một đơn vị hành chính

nhất định

- Người xuất cư hay còn gọi là người di cư đi là người rời nơi đang sinh sống để đi

nơi khác

- Người nhập cư hay còn gọi là người di cư đến là người đến nơi mới để sinh sống

2.1.2. Đặc trưng chủ yếu của di dân

Theo Tổng cục Thống kê và Quỹ dân số LHQ (2009), mỗi một hiện tượng (cá

nhân, gia đình, nhóm, dòng...) di dân đều chứa đựng những nguyên nhân, những động cơ

thúc đẩy di cư. Bản chất xã hội và bản chất sinh học của con người trong di dân hòa

huyện, tạo nên các đặc trưng mang tính quy luật. Sau đây là một số đặc trưng chủ yếu:

Một là, con người có thuộc tính là vươn tới điều kiện sống tốt hơn về vật chất và

tinh thần. Đặc trưng này cho phép nhìn nhận lại động cơ và mục đích di dân. Nơi người

ta dự định di cư đến, nhìn chung phải có điều kiện sống tốt hơn về phương diện này hay

phương diện khác.

Hai là, di dân liên quan chặt chẽ với độ tuổi. Các nghiên cứu chỉ ra rằng những

người trong khoảng tuổi từ 15 đến 30 chiếm đa số trong các dòng di dân. Họ có cơ hội và

triển vọng lớn hơn so với các độ tuổi còn lại trong đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm.

Ba là, trong lịch sử trước đây, nam giới có xu hướng di dân nhiều hơn phụ nữ.

Đây có thể phần nào đó được giải thích do bản năng và sự phân công lao động theo giới

tính. Song trong điều kiện xã hội hiện nay, do cầu trong lĩnh vực dịch vụ tăng cao, xu

hướng nữ hóa các dòng di dân đã xuất hiện. Ở một số vùng, với một số độ tuổi, nữ giới

có xu hướng di dân nhiều và mạnh hơn nam.

Bốn là, trước thời kỳ mở cửa người nào có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và

trình độ lành nghề cao hơn thì khả năng di cư lớn hơn. Họ có khả năng cạnh tranh tốt hơn

về việc làm với người sở tại, dể dàng tạo được các điều kiện định cư lâu dài tại nơi mới.

Nhưng hiện nay, ngoài những người có trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp cao,

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HVTH: Giáp Thành Công-ME7 7

còn có cả luồng di cư của những người có trình độ học vấn thấp đến tìm những việc mà

người có trình độ học vấn cao không muốn làm hoặc không có thời gian làm, đặc biệt là

di cư nông thôn-thành thị.

Năm là, người nào ít bị ràng buộc vào tôn giáo, các yếu tố văn hóa truyền thống,

hoàn cảnh gia đình sẽ dể dàng thích nghi hơn với điều kiện sống ở nơi mới do đó khả

năng di cư sẽ cao hơn so với bộ phận dân số còn lại.

2.1.3. Các lý thuyết về chất lượng cuộc sống

2.1.3.1. Một số quan điểm về chất lượng cuộc sống

Theo nghiên cứu của Richard (2008) cho thấy, các nước phương Tây ngày nay giàu

có hơn trước đây rất nhiều, họ có nhiều thực phẩm hơn, nhiều quần áo hơn, xe cộ tốt hơn,

nhà cửa to đẹp hơn, nhiều kì nghỉ nước ngoài hơn, tuần làm việc ngắn hơn, công việc thú

vị hơn và quan trọng là sức khỏe tốt hơn, nhưng người dân không hạnh phúc hơn so với

trước đây 50 năm. Vì thế ông đã cho rằng hạnh phúc là cảm thấy điều tốt lành. Tuy nhiên,

hạnh phúc bị ảnh hưởng bởi môi trường sống, ông nhấn mạnh là tính khí và thái độ của con

người liên quan đến đặc tính chủ chốt của hoàn cảnh sống như: Các quan hệ, sức khỏe, các

mối lo lắng về tiền bạc.

Theo Bell (trích bởi Ủy ban dân số gia đình và trẻ em, 2002), chất lượng cuộc sống

gắn với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, sinh thái… đặc trưng bởi 12 điểm: (i) An

toàn thể chất cá nhân; (ii) Sung túc về kinh tế; (iii) Công bằng trong khuôn khổ pháp luật;

(iv) An ninh quốc gia; (v) Bảo hiểm lúc già yếu và đau ốm; (vi) Hạnh phúc tinh thần; (vii)

Sự tham gia vào đời sống xã hội; (viii) Bình đẳng về giáo dục, nhà ở, nghỉ ngơi; (ix) Chất

lượng đời sống văn hóa; (x) Quyền tự do công dân; (xi) Chất lượng môi trường kỹ thuật

(giao thông vận tải, nhà ở, thiết bị sinh hoạt, thiết bị giáo dục, y tế); (xii) Chất lượng môi

trường sống và khả năng chống ô nhiễm. Trong đó, ông đã nhấn mạnh nội dung An toàn và

đã khẳng định CLCS được đặc trưng bằng sự an toàn của môi trường (nhân tạo) trong môi

trường tự nhiên trong lành và môi trường xã hội lành mạnh.

Lê Văn Thành (2005) cho rằng, chất lượng cuộc sống phụ thuộc vào rất nhiều yếu

tố dựa trên sự tổng hòa của mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống con người từ chính trị,

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

HVTH: Giáp Thành Công-ME7 8

kinh tế, xã hội đến môi trường hệ thống giao thông, chăm sóc sức khỏe, an ninh, giáo

dục.

Theo Nguyễn Thị Kim Thoa (2003), khái niệm CLCS thường đồng nhất với khái

niệm thoải mái tối ưu. Trong đó, mối quan tâm chính của việc nâng cao CLCS là tạo ra

một trạng thái thoải mái về vật chất và tinh thần, là tăng cường thời gian nghỉ ngơi. Sự tối

ưu hóa mức độ thoải mái được thể hiện trong sự đa dạng hóa các sản phẩm tiêu dùng mà

mỗi cộng đồng xã hội, mỗi gia đình hay mỗi cá nhân có được. Sự "thoải mái tối ưu" đó

"không có sự phân biệt mức độ giữa các tầng lớp người có sự ngăn cách bởi sự sang hèn,

hay địa vị trong xã hội". Đồng thời, CLCS còn được gắn liền với môi trường và sự an

toàn của môi trường. Một cuộc sống sung túc là cuộc sống được đảm bảo bởi những

nguồn lực cần thiết, như cơ sở hạ tầng hiện đại, các điều kiện vật chất và tinh thần đầy

đủ. Đồng thời, con người phải được sống trong một môi trường tự nhiên trong lành, bền

vững, không bị ô nhiễm; một môi trường xã hội lành mạnh và bình đẳng.

Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), CLCS được định nghĩa như một cảm nhận có

tính cách chủ quan của cá nhân đặt trong bối cảnh môi trường xã hội và thiên nhiên, thể

hiện ở mức độ sảng khoái của người dân trên sáu đề mục: về thể chất, ăn uống, ngủ nghỉ,

cả việc lệ thuộc chuyện đi lại, thuốc men; về tâm thần thì gồm cả yếu tố tâm lý và yếu tố

tâm linh (tín ngưỡng, tôn giáo), về xã hội gồm các mối quan hệ xã hội kể cả tình dục và

môi trường sống bao gồm cả môi trường xã hội: an toàn, an ninh, kinh tế, văn hóa… và

môi trường thiên nhiên (Đỗ Hồng Ngọc, 2007)

Nhìn chung, các quan điểm về CLCS về chi tiết có một số điểm khác nhau nhưng

chủ yếu xoay quanh nội dung chính là CLCS gồm những khía cạnh thuộc về môi trường

vật chất và tinh thần, giáo dục, y tế, giải trí (Nguyễn Quang Đại, 2012).

2.1.3.2. Một số tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống

Renwick (2002) định nghĩa, chất lượng cuộc sống là mức độ một người được

hưởng những điều quan trọng trong cuộc sống, những điều này có được là kết quả từ

những cơ hội và hạn chế của mỗi người trong cuộc sống phản ánh sự tương tác của các

yếu tố cá nhân và môi trường. Những cái mà họ được hưởng có hai thành phần: sự trãi

nghiệm về sự hài lòng với cuộc sống và sở hữu đạt được một số đặc tính. Ba nội dung

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!