Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc sắc nghệ thuật tiểu thuyết đoàn minh phượng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRẦN THỊ YẾN MINH
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT
ĐOÀN MINH PHƯỢNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng, Năm 2012
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ MINH HIỀN
Phản biện 1: TS. NGUYỄN THANH SƠN
Phản biện 2: TS. BÙI THANH TRUYỀN
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học Đà
Nẵng vào ngày 25 tháng 8 năm 2012
Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn xuôi Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI đã
chứng kiến nhiều nỗ lực cách tân đáng ghi nhận. Cùng với những đổi mới
nghệ thuật trong sáng tác của thế hệ nhà văn đầu tiên như Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo… những
cây bút ở giai đoạn sau như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương,
Thuận… cũng không ngừng làm mới văn chương của mình bằng những
quan niệm nghệ thuật độc đáo và kĩ thuật viết dần tiệm cận quỹ đạo sáng tạo
của văn học đương đại thế giới. Trong thế hệ nhà văn này, Đoàn Minh
Phượng nổi lên như một gương mặt lạ, một tiểu thuyết gia với kĩ thuật văn
chương “sắc” nhưng không “xảo”, một giọng văn “mới mẻ” nhưng không
“xa lạ”.
Hơn mười năm tính từ ngày trở về quê mẹ, một truyện ngắn ít nhiều gây
chú ý với độc giả trong nước, một kịch bản và đồng đạo diễn cho một bộ
phim tạo ra nhiều tiếng vang Hạt mưa rơi bao lâu, xuất bản hai tiểu thuyết
Và khi tro bụi (2006, Giải thưởng Hội nhà văn 2007) và Mưa ở kiếp sau
(2007), gia tài nghệ thuật của Đoàn Minh Phượng chưa phải là nhiều. Tuy
nhiên, đối lập với những con số ít ỏi đó là “những trang viết luôn để lại một
nỗi xót xa ngân dài trong lòng người đọc” [53]. Hai tác phẩm được viết bằng
một thứ tiếng Việt đẹp tinh khôi và thuần khiết của chị đều đã tìm được tiếng
nói đồng cảm nơi độc giả yêu văn chương. Có lẽ hiếm có nhà văn nào, chỉ
đăng đàn với hai tiểu thuyết mà có thể xác lập chỗ đứng trong lòng độc giả
(lẫn giới phê bình chuyên môn) như thế. Đoàn Minh Phượng, vì vậy, cũng
có thể được xem là một “hiện tượng” của văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XXI.
Cùng với Thuận, Đoàn Minh Phượng là một trong hai tác giả nữ có số
phận văn học khá giống nhau. Cả hai cùng là những “cánh chim thiên di”,
sống phần lớn cuộc đời nơi đất khách, tìm về cội nguồn bằng những trang
văn và tạo được dấu ấn riêng trên văn đàn với những tác phẩm đoạt giải
thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tuy nhiên, nếu Thuận là hiện thân của
một kiểu văn chương đại chúng hậu hiện đại, tràn ngập kí hiệu và vụn vỡ
những thân phận, kiếp người thì Đoàn Minh Phượng lại là hóa thân của một
thế giới “tro bụi” huyễn hoặc, “kiếp sau” ma mị, một thế giới hiện đại đa
chiều được soi chiếu bằng tâm thức xưa cũ, nơi con người đánh mất cội
nguồn và hoang mang trong nỗi cô đơn kiếm tìm bản thể.
Thực hiện đề tài Đặc sắc nghệ thuật tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng
chúng tôi hy vọng lẩy ra những nét độc đáo trong nghệ thuật tiểu thuyết
Đoàn Minh Phượng, khám phá chân giá trị nghệ thuật ẩn sau dáng vẻ những
câu chuyện trinh thám ma mị và cuốn hút, lý giải được nguyên nhân làm nên
sức hút của hiện tượng Đoàn Minh Phượng trong lòng công chúng yêu văn
học. Đồng thời, chọn nghiên cứu Đặc sắc nghệ thuật tiểu thuyết Đoàn Minh
Phượng, người viết mong muốn góp phần tìm hiểu những khuynh hướng
tiểu thuyết mới, những kĩ thuật văn xuôi đương đại và những thể nghiệm góp
phần làm nên đặc sắc cho tiểu thuyết Việt Nam. Từ đó, có thể định vị diện
mạo của văn chương Đoàn Minh Phượng nói riêng và dòng văn học xa xứ
nói chung, cũng như đánh giá năng lực sáng tạo và đóng góp nghệ thuật của
các cây bút hải ngoại đối với văn học Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những đánh giá chung về tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng
Đoàn Minh Phượng sớm được định danh với giải thưởng Hội nhà văn
năm 2007 cho tiểu thuyết đầu tay Và khi tro bụi (Nxb Trẻ, 2006). Đồng thời
nhà văn cũng tìm được sự đồng cảm với độc giả qua tiểu thuyết thứ hai Mưa
ở kiếp sau (Nxb Hội nhà văn, 2007). Tuy nhiên, Đoàn Minh Phượng chưa
phải là một tác giả nhận được nhiều sự quan tâm của giới phê bình học thuật.
Viết về Đoàn Minh Phượng, các nhà phê bình chủ yếu giới thiệu tác phẩm
Và khi tro bụi kết hợp phỏng vấn tác giả. Tiêu biểu có thể kể đến Trần Nhã
Thụy với Và khi tro bụi [63], Dương Bình Nguyên với bài giới thiệu và cảm
nhận về Đoàn Minh Phượng Và khi tro bụi bay về… [43], Tiểu Quyên soi
chiếu Đoàn Minh Phượng trong Dòng chảy trầm của văn học xa xứ [53],
Lưu Hà với bài phỏng vấn Đoàn Minh Phượng – Tôi viết khá lạnh [22], Ngô
Đồng với Đoàn Minh Phượng và Và khi tro bụi [18], Cát Khuê với Khiêm
nhường ở lại [31], Kim Ửng với Đoàn Minh Phượng: Cách kể chuyện của
tôi rất…xưa [66], v..v..
Nhìn chung, những bài báo, bài phỏng vấn trên đều ưu ái dành cho Đoàn
Minh Phượng những tình cảm trân trọng và đánh giá cao sự già dặn, chỉn
chu của nhà văn trong nghệ thuật tiểu thuyết. Các tác giả cũng có cùng quan
điểm rằng chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm Đoàn Minh Phượng là nỗi ám
ảnh “tôi là ai”, là nỗi cô đơn của con người trong cuộc chơi trốn tìm với
chính bản thân mình. Các tác giả cũng chỉ ra văn Đoàn Minh Phượng giản dị
mà tinh tế. Chị kể câu chuyện bằng một thứ tiếng Việt đẹp dịu dàng và thuần
thục. Và vì thế, văn chị được ví như một thứ trà ngon, đọng lại trong mỗi
người đọc nhiều dư vị sau mỗi lần chạm ngõ.
Trong một bài phỏng vấn gần đây Văn học Việt Nam đang phải trả giá,
nhà phê bình văn học Nguyễn Thanh Sơn cho rằng Đoàn Minh Phượng giữ
được cho ngòi bút của mình một tâm thế an nhiên và niềm tin vào những
điều tốt đẹp. “Chị ấy viết ít, cũng không phải xuất sắc nhưng giữ cho mình
được sự chân thành và trong trẻo” [56]. Điều ấy rất cần cho một người cầm
bút, Nguyễn Thanh Sơn nhận định.
Trái ngược với những đánh giá tích cực về bút lực tiểu thuyết Đoàn
Minh Phượng là một số hoài nghi về khả năng chinh phục độc giả và sức lan
tỏa của tiểu thuyết Và khi tro bụi sau khi tác phẩm này được trao giải thưởng
Hội Nhà văn năm 2007. Nguyễn Văn Quý trong bài nghiên cứu – trao đổi
Văn học Việt Nam 2007 – Một năm phẳng lặng đặt câu hỏi “Sức lan tỏa và
lay động của hai tác phẩm này (Và khi tro bụi và Khúc hát trái tim – Người
viết) đối với bạn đọc Việt Nam ra sao, hình như người ta vẫn đang tiếp tục
chờ đợi” [51].
Một số nhà phê bình và bạn đọc lại cho rằng Và khi tro bụi hỏng về kết
cấu ngôn ngữ, khó đọc và khó hiểu. “Kể cả Đoàn Minh Phượng, khi được
giải của Hội Nhà văn Việt Nam, nhiều người cũng không công nhận, cho
rằng viết kiểu gì đọc chả hiểu gì cả” [35].
Có khen, có chê, có hoài nghi và có chờ đợi, nhưng tựu trung lại, những
nhận xét, đánh giá ban đầu về tài năng của nhà văn này, còn thiên về cảm
tính mà chưa đi sâu khảo sát thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Đoàn Minh
Phượng để có được cái nhìn chân xác và khoa học hơn về vị trí và diện mạo
của nhà văn trong bức chân dung văn học Việt Nam đầu thế kỉ XXI.
2.2. Những đánh giá về kĩ thuật tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng
Bên cạnh những bài phê bình nặng tính cảm nhận, tác phẩm của Đoàn
Minh Phượng cũng đã bước đầu nhận được quan tâm của các nhà phê bình,
nghiên cứu văn học ở phương diện kĩ thuật tiểu thuyết. Nguyễn Thanh Tú
trong bài viết Bi kịch hóa trần thuật – Một phương thức tự sự đã sử dụng
tiểu thuyết Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng (cùng với Cánh đồng bất
tận của Nguyễn Ngọc Tư) như nguồn cứ liệu để khám phá một kiểu kể
chuyện sáng tạo, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của những “tác phẩm mới”
[65]. Trong bài viết này, Nguyễn Thanh Tú cho rằng Đoàn Minh Phượng đã
xây dựng nhân vật người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với những bi kịch khách
quan và chủ quan nhằm tạo nên một cách kể chuyện mang đậm dấu ấn của
tôi – nhân vật người kể chuyện đồng thời là nhân vật của câu chuyện. Tôi
không còn là người kể thuần túy đứng ngoài câu chuyện mà tham gia vào
diễn biến câu chuyện, lôi cuốn, dẫn dụ người đọc vào thế giới được trần
thuật (thế giới sự kiện) lẫn kĩ thuật trần thuật (lời kể, cách kể).
Cùng chung hướng nghiên cứu với Nguyễn Thanh Tú là bài viết Những
cái tôi kể chuyện trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng của Thái Phan Vàng
Anh [6]. Thái Phan Vàng Anh, một lần nữa, khẳng định tiểu thuyết Đoàn
Minh Phượng được trần thuật từ ngôi thứ nhất với người trần thuật xưng
“tôi”. Và vì vậy, theo tác giả, tác phẩm của Đoàn Minh Phượng thường đậm
tính tự thuật. Trong bài viết này, tác giả cũng dành một phần nhỏ đề cập đến
màu sắc triết lý trong tác phẩm Đoàn Minh Phượng. Tuy nhiên, tác giả chưa
chỉ rõ mối quan hệ giữa yếu tố triết lý và nghệ thuật trần thuật từ ngôi thứ
nhất được sử dụng trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng.
Có thể nói, Thái Phan Vàng Anh là một trong số ít những tác giả dành
nhiều quan tâm đến tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng. Tác giả đã dùng tiểu
thuyết Đoàn Minh Phượng làm luận cứ cho các bài nghiên cứu về Người kể
chuyện với điểm nhìn bên trong” [2], Thời gian trần thuật trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại [3], Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại [4]… Nhìn chung, những bài viết của Thái Phan Vàng Anh đều
tập trung khai thác khía cạnh kĩ thuật viết tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng.
Cùng xuất phát từ điểm nhìn kĩ thuật văn chương, Đỗ Minh Phúc, trong
tiểu luận Thi pháp tiểu thuyết Paris 11 tháng 8 của Thuận và Và khi tro bụi
của Đoàn Minh Phượng dưới góc nhìn so sánh [48] lại mở cánh cửa Và khi
tro bụi bằng chiếc chìa khóa của thi pháp học và văn học so sánh. Tác giả đã
chỉ ra những cách tân thi pháp của nhà văn trong dòng chảy văn chương hiện
đại và hậu hiện đại. Đặc biệt, tác giả đã đặt hai trường hợp Thuận và Đoàn
Minh Phượng trong sự vận động đổi mới của tiểu thuyết của các nhà văn nữ
nhằm chỉ ra rằng thiên tính nữ là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến
năng lực thẩm mỹ cũng như cách thức tiếp cận sự vật, hiện tượng của các
cây bút nữ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, tác giả chưa lý giải được
một cách rõ ràng và sâu sắc tính nữ là một yếu tố nội tại có năng lực chi phối
thi pháp tiểu thuyết hai nhà văn Thuận và Đoàn Minh Phượng.
Giá trị tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng cũng được khẳng định qua việc
tác phẩm của nhà văn đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công
trình nghiên cứu khoa học hoặc luận văn cao học. Tác giả Lê Tuấn Anh đã
chọn tiếp cận tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng dưới góc nhìn tự sự học với đề
tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng [1]. Trong công
trình này, dưới ánh sáng tự sự học, tác giả đã phân tích đặc điểm không –
thời gian nghệ thuật, người kể chuyện và điểm nhìn, giọng điệu trần thuật
trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng. Đây có thể xem là một công trình khá
chỉn chu, cung cấp cho người đọc một cái nhìn tương đối toàn cảnh về kĩ
thuật trần thuật của Đoàn Minh Phượng. Tuy nhiên, do hướng nghiên cứu
của tác giả thiên về phương diện trần thuật học nên giá trị tiểu thuyết Đoàn
Minh Phượng chỉ mới được bóc tách ở bề mặt cấu trúc chứ chưa được khai
vỡ đến tận cùng những giá trị nhân sinh tiềm tàng trong tác phẩm. Gần
hướng nghiên cứu với tác giả Lê Tuấn Anh, Lê Thị Hoàng Oanh cũng chọn
tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng làm một trong những nguồn cứ liệu phục vụ
cho việc khảo sát Tiểu thuyết của một số nhà văn nữ hải ngoại đương đại từ
góc nhìn thể loại [46]. Xuất phát từ phương diện thể loại, tác giả đã khảo sát
hệ thống nhân vật, không – thời gian, nghệ thuật kể chuyện và kết cấu tiểu
thuyết của các nhà văn nữ đương đại như Thuận, Lê Ngọc Mai, Đoàn Minh
Phượng. Tác gỉả khẳng định rằng so với các nhà văn trong nước thì các cây
bút hải ngoại, trong đó có Đoàn Minh Phượng, đã có những bước đi mạnh
dạn hơn trong việc đổi mới thi pháp thể loại và đã tiệm cận đến sự thành
công về mặt sáng tạo. Công trình này bước đầu đưa ra cái nhìn toàn cảnh về
tiểu thuyết nữ hải ngoại đương đại, tuy nhiên, mục đích nghiên cứu của công
trình không nhằm tập trung phân tích tiểu thuyết của một tác giả cụ thể,
riêng biệt. Vì thế, thế giới nghệ thuật Đoàn Minh Phượng vẫn còn mở ngỏ
cho nhiều nghiên cứu tiếp theo.
2.3. Tựu trung lại, những nghiên cứu về Đoàn Minh Phượng và tiểu thuyết
của tác giả này hiện vẫn còn khá khiêm tốn. Đa phần các bài viết mang tính
chất điểm sách, giới thiệu về nhà văn và đưa ra những nhận định khái lược
về tác phẩm Và khi tro bụi hoặc nhân việc phân tích một khía cạnh nào đó
của văn xuôi đương đại Việt Nam và có nhắc đến tiểu thuyết Đoàn Minh
Phượng. Một số bài viết dùng tác phẩm Và khi tro bụi làm cứ liệu để so sánh
với tác phẩm của một số nhà văn khác. Mưa ở kiếp sau, đến nay vẫn nằm
trong vùng mờ của những nghiên cứu chuyên sâu.
Mặc dù không thể phủ nhận những thành công bước đầu của những bài
viết mang tính lý thuyết phân tích về tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng, nhưng
cũng cần nhìn nhận một cách khách quan rằng những bài viết trên cũng chưa
đi đến tận cùng “bụi tro” để khám phá ra “giọt mưa rơi bao lâu”, để kiếm tìm
những “kiếp trước – kiếp này – kiếp sau” của thân phận người trong tiểu
thuyết Đoàn Minh Phượng. Những công trình nghiên cứu quy mô và khoa
học nhất về thế giới nghệ thuật Đoàn Minh Phượng, có lẽ phải kể đến một số
bài viết của Thái Phan Vàng Anh và luận văn thạc sĩ của học viên chuyên
ngành Văn học Việt Nam. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu - phê
bình đó chỉ mới tập trung khai thác đặc sắc tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng ở
phương diện thi pháp hoặc kĩ thuật tự sự - trần thuật mà chưa khai vỡ hết giá
trị triết lý, ý nghĩa nhân sinh - là những yếu tố làm nên bản sấc tiểu thuyết
Đoàn Minh Phượng. Đó chính là cơ sở để chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài
Đặc sắc nghệ thuật tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng. Thông qua những ý kiến
gợi mở của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát để
chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng, ở cả hai
bình diện nội dung và nghệ thuật, những đặc điểm làm nên sức quyến rũ khó
cưỡng của hai tác phẩm Và khi tro bụi và Mưa ở kiếp sau.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hai tiểu thuyết của Đoàn Minh
Phượng: Và khi tro bụi (Nxb Trẻ, 2006) và Mưa ở kiếp sau (Nxb Hội nhà
văn, 2007).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài là những nét riêng độc đáo của nghệ thuật
tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng được thể hiện trong hai tác phẩm Và khi tro
bụi và Mưa ở kiếp sau. Ở đây, nghệ thuật tiểu thuyết được hiểu ở bình diện
rộng của ngữ nghĩa, bao gồm nội dung lẫn hình thức biểu hiện.
Ngoài ra, để làm cơ sở cho những đối chiếu nhằm khẳng định đặc sắc
nghệ thuật tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng, chúng tôi có khảo sát thêm một
số tác phẩm của Thuận, Haruki Murakami, Sơn Táp, là những tác giả chúng
tôi cho rằng có sự tương đồng về nền tảng xã hội, cơ sở thẩm mĩ cũng như
nghệ thuật tiểu thuyết với trường hợp Đoàn Minh Phượng.
4. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật góp phần làm nên giá trị của tiểu thuyết
Đoàn Minh Phượng, cụ thể là hai tác phẩm Và khi tro bụi và Mưa ở kiếp sau.
Thông qua việc lý giải cội nguồn của những đặc sắc nghệ thuật trong tiểu
thuyết Đoàn Minh Phượng, chỉ ra những nét riêng độc đáo của nghệ thuật
tiểu thuyết của nhà văn này so với các cây bút cùng thời.
Từ điểm nhìn so sánh nghệ thuật tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng với
nghệ thuật tiểu thuyết các nhà văn cùng thời đại, bước đầu khái quát những
đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam trong những năm đầu thế
kỉ XXI.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc
- Phương pháp phân tích – mô tả
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp hỗ trợ khác.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Nội dung
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cảm thức về con người cô đơn trong tiểu thuyết Đoàn Minh
Phượng
Chương 2: Sắc thái triết lý trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng
Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật trong tiểu thuyết Đoàn Minh
Phượng
***
Chương 1
CẢM THỨC VỀ CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG TIỂU THUYẾT
ĐOÀN MINH PHƯỢNG
1.1. Tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng trong dòng chảy văn chương Việt
Nam
1.1.1. Trong dòng chảy văn học trong nước những năm đầu thế kỉ XXI
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, văn học Việt Nam những năm
đầu thế kỉ XXI đang có sự chuyển mình tích cực với cuộc đổi máu âm thầm
và sự lên ngôi của các cây bút trẻ; sự nới rộng về đề tài và dung nạp nhiều
luồng tư tưởng mới mẻ cũng như những nỗ lực cách tân trong việc “kể lại
nội dung” (Hoàng Ngọc Hiến) và làm mới tiểu thuyết. Một trong những thể
nghiệm khá thành công của văn xuôi giai đoạn này là khuynh hướng tiểu
thuyết ngắn với sự góp mặt của nhà văn Đoàn Minh Phượng.
1.1.2. Trong “dòng chảy trầm của văn học xa xứ”
Cùng với các nhà văn xa xứ khác, Đoàn Minh Phượng đã mang lại một
luồng gió mới cho văn học Việt Nam. Với tâm thế của một người xa xứ,
Đoàn Minh Phượng thầm thì tự thuật về thân phận lạc loài và nỗi cô đơn của
những đứa con đánh mất hoặc bị tước bỏ cội nguồn. Cảm thức cô đơn đậm
đặc trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng cũng chính là đặc điểm chung dễ
nhận thấy ở những sáng tác của những nhà văn xa xứ khi bị kẹt giữa những
va chạm, xung đột văn hóa và phải đối mặt với kí ức trống rỗng của chính
mình.
1.2. Con người với nỗi cô đơn cội nguồn
1.2.1. Cội nguồn số phận
Nhân vật trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng không chỉ là những tha
nhân bị tách bỏ khỏi quê hương, lưu lạc nơi xứ người mà còn là những số
phận đánh mất hoặc bị tước bỏ cội nguồn ngay khi đang sống trên quê
hương xứ sở. Họ vừa sợ hãi, mặc cảm và chối bỏ cội nguồn vừa luôn nhung
nhớ và khát khao tìm lại không gian – thời gian “đã mất”. Nỗi cô đơn cội
nguồn trở thành một ám ảnh, chi phối nhận thức, thái độ và hành vi, ứng xử
của nhân vật với thế giới chung quanh và tồn tại của chính mình, đồng thời
cũng tác động đến ứng xử nghệ thuật của tác giả.
Đoàn Minh Phượng tuyệt đối hóa hóa tâm trạng cô đơn và mặc cảm
thiếu quê hương, phi nguồn gốc của nhân vật, tách rời nhân vật khỏi những
khái niệm không gian cụ thể, những mốc thời gian có thật.
Không gian vô định, thời gian phiếm chỉ được nhà văn sử dụng như một
thủ pháp nghệ thuật nhằm gia tăng sự cô đơn và vô hướng của con người khi
tách rời khỏi môi trường cội nguồn và môi trường văn hóa.
1.2.2. Cội nguồn bản thể
Vấn đề trọng tâm trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng chính nỗi cô đơn
khi con người không thể xác định được cội nguồn bản thể. Con người, sự vật
lẫn những ý niệm trừu tượng không những băn khoăn về nguồn cội của bản
thể tôi là ai, tồn tại của tôi khởi nguyên như thế nào mà còn hoài nghi về ý
nghĩa và giá trị của sự tồn tại. Họ luôn khao khát vượt qua ranh giới của sự
vô minh để thức nhận và khẳng định bản thể, thậm chí tìm đến cái chết như
một hành vi định nghĩa bản thân. Tuy nhiên, càng nỗ lực con người càng bất
lực trong khát khao định giá bản thân và khẳng định bản thể. Nỗi cô đơn của
họ không chỉ do áp lực bên ngoài mà bản chất là từ nguồn sống bên trong.
Nỗi cô đơn nội tại xuất phát từ khát vọng được thấu hiểu cội nguồn và giá trị
và ý nghĩa của sự tồn tại không chỉ được nhà văn nhận thức như một hiện
tượng xã hội, một sản phẩm mang tính lịch sử - văn hóa mà như một phạm
trù triết học, một vấn đề thuộc về bản thể cần được khai vỡ.
Vì vậy, hành trình tôi tìm tôi trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng
không phải là cuộc hành trình ra đi-tìm kiếm mà là cuộc hành hương trở vềtìm lại. Đặc điểm này làm nên sự khác biệt của con người cô đơn trong tiểu
thuyết Đoàn Minh Phượng so với tiểu thuyết của Thuận hay truyện ngắn của
Haruki Murakami.
1.3. Con người với bi kịch “kiếp người”
1.3.1. Bi kịch tha hương
Không nhắc tên một vùng đất, hạn chế đề cập hai chữ quê hương,
nhưng, bàng bạc trong Và khi tro bụi và Mưa ở kiếp sau là nỗi bi thương của
những tâm hồn lạc loài vì quê hương từ li, cội nguồn phân cách. Bi kịch tha
hương – vong thân trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng câm lặng nhưng dữ
dội, chi phối toàn bộ cuộc đời nhân vật. Trước hết, đó là bi kịch của những
cá thể sống cách biệt với quê hương xứ sở, bị tổn thương bởi một quá khứ
mất mát, đau đáu về một quê hương có thật từng tồn tại trong tâm hồn và tồn
tại trong không gian – thời gian hiện tại nhưng vẫn luôn ám ảnh về một
không gian – thời gian đã mất. Đó đồng thời còn là bi kịch của những kiếp
người “thiếu quê hương” (Nguyễn Tuân) ngay trên quê hương của mình,
trong gia tộc, gia đình và trong kiếp sống của mình. Họ không tìm được sự
đồng cảm từ những con người gợi nhớ xứ sở và dòng họ, không được sẻ chia
từ những số phận đồng dạng chung quanh. Bi kịch không có quê hương,
không có nguồn gốc khiến con người lạc loài trong chính cuộc đời và kiếp
sống vay mượn của mình.
1.3.2. Bi kịch cam chịu
Trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng, cam chịu trở thành hành vi ứng
xử phổ quát của những con người đã quen sống trong cái bóng của mình quá
lâu. Như một sự đồng điệu vô thức, nhà văn cảm nhận bi kịch cam chịu
thường hằn in trên thân phận người phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ An
Nam như An Mi, Liên hay Ngọc Lan… Tuy nhiên, nhà văn cũng chỉ ra rằng
trong xã hội hiện đại, tấn bi kịch ấy không chừa một ai bởi con người bị
buộc phải lựa chọn hoặc một cuộc sống an toàn phụ thuộc, thanh bình, chán
ngắt, giả tạo hoặc rơi vào trạng thái trầm cảm, tồn tại một cách phi lý, bất tín
những giá trị mình từng tôn sùng. Cam chịu trở thành đặc trưng của kiểu bi
kịch hậu hiện đại, trong đó, gia đình ông Kempf, cha nuôi của An Mi, mẹ
nuôi của An Mi, cô Sophie, gia đình hàng xóm ông Kempf… vừa là nạn
nhân của nó, vừa là hiện thân của xã hội hiện đại, rã rời niềm tin và sụp đổ
chân lý.
1.3.3. Bi kịch đánh mất cuộc đời mình
Hủy đi cái ngã, nhân vật trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng đảm nhận
an toàn những vai trò mà họ chọn hoặc cuộc đời cấp cho họ. Họ chấp nhận
sống trong bi kịch đánh đổi hoặc vô thức đánh mất cuộc đời mình.
Bi kịch đánh mất cuộc đời mình hiện hình trước hết ở những con người
chủ động chối bỏ cuộc đời thật để đổi lấy cuộc sống an toàn giả tạo
(Michael, An Mi, ông Kempf, mẹ nuôi, gia đình người hàng xóm...), ở
những cuộc đời bị đánh tráo, sống nhờ, sống mượn (Mai, những đứa con gái
ở Muôn Hoa…). Tuy nhiên, những mầm mống bi kịch luôn tồn tại, đe dọa
họ bằng những cái chết khi không thể tiếp tục sự sống vay mượn và cả
những cái chết lâm sàng khi đang sống.
Điểm đặc biệt cần chú ý là bi kịch ấy không chỉ được nhà văn miêu tả
như một nhân tố thuộc về nội dung của tác phẩm mà việc bi kịch hóa số
phận nhân vật cũng là một phương thức trần thuật, giúp Đoàn MInh Phượng
có điều kiện khai vỡ tâm hồn con người, khám phá nỗi cô đơn của kiếp
người ở những trạng thái sâu kín và cùng kiệt nhất.
***
Chương 2
SẮC THÁI TRIẾT LÝ TRONG TIỂU THUYẾT
ĐOÀN MINH PHƯỢNG
2.1. Hệ thống biểu tượng mang đậm tính triết lý
Biểu tượng là cái đại diện cho một ý tưởng, thực thể vật chất hoặc một
quá trình nhằm mục đích truyền thông điệp ý nghĩa. Biểu tượng có tính tái
sinh và thừa kế. Trong văn học, tùy vào văn cảnh và dụng ý nghệ thuật của
nhà văn, biểu tượng được “cấp” cho những đời sống mới với những ý nghĩa
khác nhau, góp phần phản ánh tư tưởng nghệ thuật và phong cách tác giả,
đồng thời, tạo ra những ám ảnh triền miên, những suy tư không dứt và âm
hưởng triết lý đậm chất trữ tình cho các tác phẩm văn học.