Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ NGẤT pps
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuẩn đoán và điều trị
Ngất
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ NGẤT
TS. Phạm Nguyên Sơn
I. ĐẠI CƯƠNG
1. Định nghĩa
Ngất là tình trạng mất ý thức thoáng qua, tự hết. Ngất thường khởi phát
nhanh, tiếp theo là phục hồi hoàn toàn và hay lặp lại. Cơ chế chính của ngất là
thiếu máu não tạm thời. Ngất thường không có triệu chứng báo trước, tuy nhiên có
một số thể ngất có những tiền triệu như chóng mặt, buồn nôn, vã mồ hôi, hoa mắt
..., những dấu hiệu này báo hiệu ngất sẽ xảy ra. Sau cơn ngất, bệnh nhân hầu như
được phục hồi hoàn toàn nhưng cũng có những trường hợp có tình trạng quên
những sự kiện đã xảy ra (hay gặp ở người lớn tuổi) hoặc tình trạng mệt mỏi. Thời
gian diễn ra cơn ngất thường khá nhanh nhưng cũng rất khó xác định được chính
xác; ngất do thần kinh phế vị (vasovagal) thường không kéo dài quá 20 giây
nhưng cũng có những trường hợp kéo dài đến vài phút.
Ngoài ngất điển hình, còn có tình trạng tiền ngất. Tiền ngất (Pre - syncope
hay near syncope) là tình trạng bệnh nhân cảm thấy ngất sắp xảy ra. Các triệu
chứng đi kèm với tiền ngất thường không đặc hiệu (choáng váng, hoa mắt) và
thường bị lẫn với các tiền triệu của ngất điển hình.
2. Sinh lý bệnh
Người khoẻ mạnh thường có cung lượng máu não từ 50 - 60 ml/100g tổ
chức/phút, tương đương với 12 - 15% cung lượng tim khi nghỉ. Cung lượng này
đủ đảm bảo cho lượng O2 tối thiểu để duy trì ý thức là khoảng 3,0 - 3,5 ml
O2/100g tổ chức/phút. Tuy nhiên ở người lớn tuổi hoặc ở những bệnh nhân bị một
số bệnh lý, khả năng đảm bảo O2 cho não bị hạn chế nhiều.
Áp lực tưới máu não ở người phụ thuộc nhiều vào huyết áp động mạch vì
vậy bất kỳ yếu tố nào làm giảm cung lượng tim hoặc sức cản động mạch ngoại vi
đều làm giảm HA và do đó làm giảm áp lực tưới máu não. Yếu tố quan trọng nhất
có ảnh hưởng đến cung lượng tim chính là cung lượng máu tĩnh mạch trở về tim,
vì vậy khi có tình trạng ứ trệ máu tĩnh mạch ở một bộ phận của cơ thể hoặc có
giảm thể tích máu lưu hành đều có nguy cơ gây ra ngất. Cung lượng tim cũng chịu
ảnh hưởng của các rối loạn nhịp nhanh, rối loạn nhịp chậm và một số bệnh lý van
tim. Đối với trở kháng động mạch ngoại vi, tình trạng giãn mạch ngoại vi quá mức
là yếu tố chính làm giảm HA động mạch (nguyên nhân chủ yếu của ngất trong hội
chứng ngất do phản xạ). Giãn mạch cũng xảy ra trong choáng do nhiệt. Sức cản
động mạch bị tổn thương khi ở tư thế đứng là nguyên nhân của hạ HA tư thế và
ngất ở những bệnh nhân có sử dụng thuốc vận mạch và những bệnh nhân có tổn