Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Các phương tiện tình thái trong câu văn của nguyễn huy thiệp, khảo sát qua tập “truyện ngắn nguyễn huy thiệp"
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ TRUNG TÚ
CÁC PHƯƠNG TIỆN TÌNH THÁI TRONG CÂU VĂN
CỦA NGUYỄN HUY THIỆP, KHẢO SÁT QUA TẬP
“TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP”
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ HỌC
ĐÀ NẴNG, NĂM 2016
Công trình được hoàn thiện tại
Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. BÙI TRỌNG NGOÃN
Phản biện 1: PGS.TS. HOÀNG TẤT THẮNG
Phản biện 2: PGS.TS. DƯƠNG QUỐC CƯỜNG
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ Ngôn ngữ học họp tại Trường Đại học Sư phạm
ĐHĐN vào ngày ……. tháng ……. năm …….
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học để tiếp cận văn bản nghệ thuật
là một hướng đi mới của Việt ngữ học ứng dụng hiện nay.
Hiểu một văn bản nghệ thuật không thể tách rời với trực giác. Tuy
nhiên, sự miêu tả và phân tích ngôn ngữ có thể giúp ích nhiều cho sự hiểu
biết của chúng ta. Có thể phân tích ngôn ngữ về các mặt ngữ âm, từ vựng
ngữ nghĩa, cú pháp để tìm ra giá trị biểu đạt của một văn bản nghệ thuật.
Đồng thời, lĩnh vực tình thái trong ngôn ngữ là một hệ thống lý
thuyết mới và ngày càng được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm. Bởi
lẽ hiểu về tình thái là hiểu về bản chất ngôn ngữ, “không có tình thái, nội
dung thể hiện trong câu nói chỉ là những mảnh ghép nguyên liệu rời rạc.
Bally đã rất đúng khi cho rằng tính tình thái là linh hồn của phát ngôn, mà
nói rộng ra là của hoạt động ngôn ngữ nói chung” (dẫn của tác giả Nguyễn
Văn Hiệp [8, tr.74]) Vai trò của tình thái càng quan trọng khi nó trở thành
một phương tiện đặc hữu để phân tích ngữ nghĩa câu và văn bản. Khi vận
dụng lý thuyết tình thái này vào tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học đã có thêm
những cách nhìn mới mẻ về các phương tiện ngôn ngữ trong câu tiếng Việt.
Tuy nhiên, một thực tế đang tồn tại là mặc dù hệ thống lý thuyết về
tình thái trong ngôn ngữ học thế giới đã được nghiên cứu sâu nhưng đối với
tiếng Việt, tình thái vẫn là một vấn đề cần được khai triển sâu sát hơn nữa.
Biểu hiện sinh động nhất của ngôn ngữ là trong văn bản nghệ thuật
và vì thế qua tác giả Nguyễn Huy Thiệp và tác phẩm của ông, chúng tôi hi
vọng sẽ có được những dẫn liệu thuyết phục nhất về các yếu tố tình thái
trong câu. Ngược lại từ kết quả nghiên cứu có thể đặt một điểm nhìn từ góc
độ tình thái đến ngôn ngữ nghệ thuật Nguyễn Huy Thiệp. Đó là lý do để
chúng tôi chọn đề tài Các phương tiện biểu thị tình thái trong câu văn của
Nguyễn Huy Thiệp, khảo sát qua tập “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thế giới có quan niệm rộng, hẹp khác nhau về nghĩa tình thái.
Theo quan niệm hẹp, nghĩa tình thái thường được cho là phần nghĩa phản
ánh mối quan hệ, thái độ, ý định của người nói đối với nội dung phát ngôn
và/ hoặc quan hệ giữa nội dung phát ngôn đối với thực tế. Theo quan niệm
rộng, tình thái - nói theo Bybee - là “tất cả những gì mà người nói thực hiện
cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề”.
Trong văn liệu nghiên cứu về tình thái cổ điển, có một thời tình thái
chia ra làm 3 phạm trù: tình thái khách quan logic (Lyons 1977, 791), tình
thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa (Palmer 1986, 51, 96), (Lyons 1977,
823) là cách phân loại khá phổ biến, được nhiều tác giả trên thế giới nói tới,
tuy nhiên cách phân chia này thực ra chỉ nhằm vào một số kiểu ý nghĩa tình
2
thái mà thôi, nó không bao quát được rất nhiều kiểu ý nghĩa tình thái khác
[8,tr101-102]
Ở Việt Nam, các tác giả Hoàng Trọng Phiến, Cao Xuân Hạo, Diệp
Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Lê Quang Thiêm,... cơ bản thống nhất với
quan niệm về nghĩa tình thái của các nhà nghiên cứu nước ngoài, đặc biệt là
với quan niệm rộng về tình thái. Chẳng hạn, theo Nguyễn Thiện Giáp cho
tình thái trong ngôn ngữ là thái độ của người nói với nội dung mệnh đề mà
câu biểu thị hay tình trạng mà mệnh đề đó miêu tả, là thông tin ngữ nghĩa
của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của người nói đối với điều được nói ra
[4, tr 416]. Còn theo Diệp Quang Ban, nghĩa tình thái là bộ phận chỉ ý
định, thái độ, tình cảm của người nói đối với điều được nói ra và là quan
hệ của người nói đối với người nghe [1, tr181], chúng tôi coi kết quả
nghiên cứu của Diệp Quang Ban là định hướng và là cơ sở lý luận quan
trọng để nghiên cứu đề tài này.
Nhiều công trình của các nhà Việt ngữ học đã ít nhiều đề cập đến
việc phân chia nghĩa tình thái và phương tiện biểu thị nghĩa tình thái như
công trình của các tác giả cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học (Nguyễn Như Ý chủ biên), các tác giả Cao Xuân Hạo, Diệp Quang
Ban, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Thị Lương, …
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện được sự phong phú của các phương tiện tình thái trong
thực tế ngôn ngữ văn chương tiếng Việt
Nhận diện được năng lực biểu đạt của các phương tiện tình thái đối
với thế giới nghệ thuật Nguyễn Huy Thiệp
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng hệ thống lý thuyết về các phương tiện biểu thị tình thái
trong ngôn ngữ và lĩnh hội được năng lực biểu đạt của chúng.
Phân tích đặc điểm ngữ nghĩa của các phương tiện tình thái trong văn
bản Nguyễn Huy Thiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên đối tượng: Các yếu tố tình thái trong
câu văn Nguyễn Huy Thiệp.
Phạm vi nghiên cứu: Văn bản nghệ thuật trong tập truyện ngắn
“Nguyễn Huy Thiệp truyện ngắn”, (Tái bản) NXB Hội nhà văn, [25] Cụ thể
có 37 truyện ngắn.
3
STT TÊN TRUYỆN STT TÊN TRUYỆN
1 Chảy đi sông ơi 20 Nguyễn Thị Lộ
2 Tướng về hưu 21 Trương chi
3 Cún 22 Đời thế mà vui
4 Không có vua 23 Thiên văn
5 Muối của rừng 24 Tội ác và trừng phạt
6 Con gái thủy thần 25 Thương cả cho đời bạc
7 Những người thợ xẻ 26 Chăn trâu cắt cỏ
8 Những bài học nông thôn 27 Hạc vừa bay vừa kêu
thoảng thốt
9 Kiếm sắc 28 Lòng mẹ
10 Vàng lửa 29 Không khóc ở California
11 Phẩm tiết 30 Truyện tình kể trong đêm
mưa
12 Thương nhớ đồng quê 31 Đưa sáo sang sông
13 Mưa nhã nam 32 Bài học tiếng Việt
14 Những ngọn gió Hua Tát 33 Sống dễ lắm
15 Tâm hồn mẹ 34 Thổ cẩm
16 Huyền thoại phố phường 35 Những người muôn năm cũ
17 Giọt máu 36 Chuyện ông Móng
18 Chút thoáng Xuân hương 37 Chú hoạt tôi
19 Mưa
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên
cứu ngôn ngữ học như tiến hành khảo sát cách sử dụng các phương tiện tình
thái của tác giả. Sau đó tiến hành thống kê, phân tích, miêu tả dựa trên những
khảo sát cụ thể. Đồng thời chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh và đối chiếu
theo khuôn mẫu các phương tiện tình thái để làm rõ các giá trị biểu đạt của
chúng trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Ngoài các thao tác như đã nêu ở
trên, thao tác giải thích được sử dụng trong toàn luận văn.
6. Bố cục đề bài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung bao gồm có 3
chương sau:
Chương 1. Những cơ sở lý luận và tổng quan về truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp
Chương 2. Khảo sát các phương tiện tình thái trong câu văn của
Nguyễn Huy Thiệp
Chương 3. Giá trị biểu đạt của các yếu tố tình thái trong câu văn của
Nguyễn Huy Thiệp.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
1.1 TÌNH THÁI TRONG NGÔN NGỮ VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN
BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI
1.1.1 Tình thái trong ngôn ngữ và tình thái trong tiếng Việt
- Tình thái trong logic
Tình thái trong logic còn được gọi là tình thái khách quan bởi nó
quan tâm đến tính đúng/ sai hay thực cách của mệnh đề được biểu thị trong
câu nói.
Trong logic học, nội dung của một mệnh đề được chia làm hai phần.
Phần thứ nhất gọi là ngôn liệu (lexic hay dictum) tức cái tập hợp gồm sở
thuyết – vị từ logic và các tham tố của nó được xét như một mối liên hệ
tiềm năng. Phần thứ hai gọi là tình thái (modalité) là cách thực hiện mối liên
hệ ấy.
Nguyễn Văn Hiệp cho rằng: “Khái niệm tình thái khách quan phản
ánh cái nhìn của logic học về nội dung của câu.
- Tình thái trong ngôn ngữ
Đối lập với tình thái trong logic là loại tình thái không quan tâm đến
vai trò của người nói, tình thái trong ngôn ngữ nhấn mạnh vai trò của người
nói đối với điều được nói ra trong câu. Chính vì thế, người ta còn gọi tình
thái trong ngôn ngữ là tình thái chủ quan.
Có thể nói rằng, điểm khác biệt nhất giữa tình thái khách quan và
tình thái chủ quan đó là sự có mặt hoặc vắng mặt của vai trò người nói.
Trong ngôn ngữ học, có thể nói Ch. Bally, nhà ngôn ngữ học người
Pháp, là người đầu tiên cho việc đặt vấn đề nghiên cứu tình thái một cách có
hệ thống. Ông chủ trương phân biệt trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn hai
thành phần cơ bản tương ứng là modus (tình thái) và dictum (ngôn liệu).
Tác giả Nguyễn Văn Hiệp cho rằng: “Nếu trong hệ thống tình thái
khách quan, dựa trên những tham tố về tính tất yếu, tính khả năng, tính hiện
thực, quan hệ giữa chủ thể và vị thể được quy về một số nhóm cơ bản, được
coi là mang tính bản thể, khách quan, loại trừ vai trò của người nói thì trong
hệ thống tình thái chủ quan, vai trò của người nói đặc biệt được nhấn mạnh.
Cùng với Nguyễn Văn Hiệp, tác giả Bùi Trọng Ngoãn cho rằng, tình
thái chủ quan (tình thái trong ngôn ngữ) được chia thành hai phạm trù là
tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa. Trong đó:
5
(a) Tình thái nhận thức là tình thái về độ chân thực, độ cam kết đối
với chuẩn mực chân thực của điều được nói ra là tất yếu hay không tất yếu,
có thể hay không có thể. Xét về độ chân thực, trong tình thái nhận thức có 3
phạm trù là:
- Tình thái thực hữu (factive), Tình thái phản thực hữu (contre –
factive), Tình thái không thực hữu (non – factive)
(b) Tình thái đạo nghĩa (deontic), còn gọi là tình thái ràng buộc, là
nội dung tình thái xét theo những quy ước xã hội về đạo đức, luân lý, tập
quán, phong tục, với sự phân biệt: bắt buộc/không bắt buộc; được
phép/không được phép; cấm đoán/không cấm đoán; miễn trừ/không miễn
trừ.
1.1.2 Các phương tiện biểu thị tình thái trong Tiếng Việt
Tình thái phản ánh quan hệ đa phương giữa người nói, nội dung
mệnh đề, người đối thoại và thực tế. Như đã đề cập ở trên, mỗi phát ngôn
luôn là một sự cộng hợp của “dictum” và “modalité”, trong bất cứ ngôn ngữ
nào. Như vậy, tình thái là một hiện tượng phổ quát, chung cho tất cả các
ngôn ngữ tự nhiên trên thế giới, nghĩa là luôn luôn tồn tại các phương tiện
biểu đạt tình thái trong tất cả các ngôn ngữ.
Tác giả Hoàng Trọng Phiến (1980) đã nhận định trong cuốn “Ngữ
pháp tiếng Việt – câu” rằng mỗi ngôn ngữ có các phương tiện biểu đạt tình
thái riêng, nhưng những phương tiện thường gặp nhất là ngữ điệu, động từ,
trật tự từ, tiểu từ tình thái, thành ngữ và ngữ cố định có chức năng khu biệt
và hiện thực hóa câu.
Mỗi ngôn ngữ có các đặc trưng chi phối sự xuất hiện của các phương
tiện biểu đạt tình thái. Palmer trong cuốn “Mood and Modality” (Thức và
tình thái) cho rằng có 3 phương tiện ngữ pháp biểu thị ý nghĩa là thức
(mood), động từ tình thái (modal verbs), và các tiểu từ (particles). Tác giả
Bùi Trọng Ngoãn (2004) trong luận án tiến sĩ thì thức của ngôn ngữ Châu
Âu bao gồm: Thức trực chỉ (indicative); Thức mệnh lệnh (imperative);
Thức giả định (subjunctive)
Tác giả Nguyễn Văn Hiệp trong Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp
đã chỉ ra 12 nhóm phương tiện biểu thị tình thái trong tiếng Việt
Tác giả Bùi Trọng ngoãn (2004) đã chỉ ra các phương tiện biểu thị
nội dung tình thái trong tiếng Việt gồm ba nhóm: (1) ngữ điệu (2) cấu trúc
câu (3) từ biểu thị tính tình thái: động từ tình thái, động từ chỉ thái độ mệnh
đề, động từ ngữ vi, quán ngữ tình thái, tiểu từ tình thái, thán từ, phó từ tình
thái….
6
TS. Trần Kim Phượng đã tập hợp các phương tiện biểu hiện ý nghĩa
tình thái trong tiếng Việt bao gồm: Động từ tình thái; Tình thái từ; Đại từ
nhân xưng; Quán ngữ tình thái; Các kiểu câu
Từ những quan điểm được các nhà ngôn ngữ học đi trước nêu ra,
chúng tôi nhận thấy có “độ chênh” nhất định trong việc liệt kê các phương
tiện biểu thị tình thái trong tiếng Việt. Chúng tôi tiếp thu những quan điểm
trên để hệ thống hóa các phương tiện biểu đạt tình thái theo ba phương tiện
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp như sau:
a. Phương tiện ngữ âm
Các phương tiện ngữ âm dùng để biểu thị tình thái trong câu nói thực
chất là các hiện tượng ngôn điệu mà người nói chủ tâm dung trong câu như
ngữ điệu, trọng âm, thanh điệu nhằm thể hiện thái độ, tình cảm, đánh giá….
- Ngữ điệu cũng là một phương tiện phân loại lời nói. Nhưng chức
năng chính của ngữ điệu là nối liền các bộ phận của lời nói lại với nhau, làm
cho lời nói trở nên liền mạch.
-Thanh điệu là sự nâng cao – hạ thấp “giọng nói” trong một âm tiết
có tác dụng khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị. Nếu ngữ điệu là đặc
trưng của câu, trọng âm là đặc trưng của từ thì thanh điệu là đặc trưng của
âm tiết.
Các phương tiện ngữ âm (ngữ điệu, trọng âm, thanh điệu) biểu thị
tình thái thường dễ nhận diện trong giao tiếp. Trong văn bản viết, để nhận
biết phương tiện ngữ âm biểu thị tình thái phải gắn với ngôn cảnh và các
dấu câu.
b. Phương tiện từ vựng
Các phương tiện từ vựng được sử dụng phổ biến và đóng một vai trò
hết sức quan trọng trong việc biểu thị tình thái trong ngôn ngữ không biến
hình như tiếng Việt. Chúng tôi đồng nhất với quan điểm của Nguyễn Văn
Hiệp về hệ thống các phương tiện từ vựng biểu thị tình thái, bao gồm:
Nhóm 1: Các nhóm tiền phó từ làm thành phần phụ của ngữ vị từ:
-Tiền phó từ biểu thị lặp lại: đều, cũng, vẫn, cứ, là
-Tiền phó từ biểu thị tần số: thường, hay, năng
-Tiền phó từ biểu thị quan hệ thời gian: đã, từng, đang, vừa, mới, sẽ
-Tiền phó từ biểu thị khuyến lệnh: hãy, đừng, chớ
- Tiền phó từ biểu thị mức độ: rất, hơi, khí, quá
-Tiền phó từ biểu thị nội dung phủ định: không, chưa, chẳng, chả
-Tiền phó từ chỉ hạn định: chỉ
Nhóm 2: Các động từ tình thái làm chính tố trong ngữ động từ: toan,
định, cố, muốn, đành, được, bị, bỏ,
7
Nhóm 3: Các động từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ
mệnh đề: tôi e rằng, tôi sợ rằng, tôi hi vọng rằng, tôi nghĩ rằng, tôi thấy
rằng……
Nhóm 4: Các quán ngữ tình thái: ai bảo, nói gì thì nói, ngó bộ, thảo
nào, tội gì, kể ra, làm như thể…..
Nhóm 5: Các động từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (với
những điều kiện về ngôi, về chỉ tố thời…) như: ra lệnh, van, xin, đề nghị,
yêu cầu….
Nhóm 6: Các thán từ: ôi, eo ôi, chao ôi, ồ….
Nhóm 7: Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ (idiom)
tương đương: à, ư, nhỉ, nhé, thôi, chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì
chết…..
Nhóm 8: Các tình thái từ / ngữ và tổ hợp có tính đánh giá: may (là),
may một cái (là), đáng mừng (là), đáng tiếc (là), hình như, có lẽ, dường
như….
Nhóm 9: Các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả, chính…..
Nhóm 10: Những đại từ nghi vấn được dùng trong những câu phủ
định – bác bỏ: (P làm gì? P thế nào được?), các liên từ dùng trong các câu
hỏi (Hay P?, Hay là P?).
Nhóm 11: Các từ ngữ chêm xen biểu thị tình thái: nó biết cóc gì, mua
cha nó cho rồi, hỏi cái đếch gì, biết khỉ gì mà nói….
Nhóm 12: Kiểu câu điều kiện, giả định: nếu…. thì…, giá ….. thì…..,
Dĩ nhiên, hệ thống được tác giả Nguyễn Văn Hiệp liệt kê như trên
mang tính phổ quát, không phải lúc nào các phương tiện trên cũng xuất hiện
đầy đủ trong ngữ cảnh cụ thể. Bản thân chúng tôi khi nhận diện cũng cho
rằng trong 12 nhóm phương tiện từ vựng biểu thị tình thái thì 11 nhóm đầu
tiên thuộc về các phương tiện từ vựng, riêng nhóm 12 thì thuộc về các
phương tiện ngữ pháp biểu thị tình thái.
-Một điều đặc trưng khi chúng tôi nghiên cứu nữa là Nguyễn Huy
Thiệp sử dụng khá nhiều các từ láy giàu hình ảnh
-Tác giả sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ dân gian gần gũi
với người dân
-Tác giả sử dụng các từ ngữ khẩu ngữ Bắc bộ
8
c. Phương tiện ngữ pháp
Xét về các phương tiện biểu thị ngữ pháp trong tiếng Việt hiện nay
chủ yếu xuất hiện ở các thành phần phụ của câu, điển hình là: Trạng ngữ;
tình thái ngữ; các kết từ trong các kiểu câu ghép.
-Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp trong cuốn Thành phần
câu tiếng Việt phân loại rõ 7 loại trạng ngữ chủ yếu xét theo bình diện nghĩa
học như sau:
Trạng ngữ chỉ thời gian; Trạng ngữ chỉ không gian, nơi chốn; Trạng
ngữ chỉ nguyên nhân sự tình; Trạng ngữ chỉ mục đích; Trạng ngữ chỉ hạn
định; Trạng ngữ chỉ phương thức; Trạng ngữ chỉ chủ thể của hành động
-Cũng theo Nguyễn Văn Hiệp, tình thái ngữ xét về mặt cấu tạo hay
theo đặc trưng ngữ nghĩa – cú pháp để nhận diện thì căn cứ theo các tiểu từ
tình thái và các tổ hợp có tính “đặc ngữ” đảm nhiệm
- Các kết từ trong các kiểu câu ghép: TS. Bùi Trọng Ngoãn phân loại
các kiểu câu ghép như sau: Câu ghép đẳng lập: có các kiểu cấu trúc như
Ghép đẳng lập liệt kê; Ghép đẳng lập nối tiếp; Ghép đẳng lập lựa chọn;
Ghép đẳng lập tương phản, đối nghịch; Câu ghép chính phụ; Câu ghép qua
lại; Câu ghép chuỗi
1.2 NGUYỄN HUY THIỆP VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA ÔNG
1.2.1 Nguyễn Huy Thiệp trong đời sống văn chương Việt Nam
hiện đại
a. Giới thiệu tác giả
b. Tác giả và vị trí trong văn học
1.2.2 Giới thiệu tập truyện ngắn
Tiểu kết:
Chương 1, như tên gọi của nó, chủ yếu là hệ thống lý thuyết làm cơ
sở lý luận cho đề tài. Trong chương này chúng tôi đã tái hiện các quan
niệm, các ý kiến về tình thái trong ngôn ngữ, tình thái trong tiếng Việt và
trình bày một cách chi tiết về các phương tiện biểu thị tình thái trong tiếng
Việt. Từ đó người viết đã khái quát hóa xây dựng chúng như là một hệ
thống công cụ làm cơ sở cho chương 2.
Mặt khác, phạm vi khảo sát của đề tài là truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp vì thế cũng trong chương 1 này chúng tôi đã giới thiệu khái quát về
Nguyễn Huy Thiệp và tập truyện ngắn ấy. Cần nói thêm rằng nghĩa tình thái
chỉ bộc lộ trọng vẹn khi đặt chúng trong một ngữ cảnh cụ thể. Vì thế phần
giới thiệu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chính là sự chuẩn bị khung
hoàn cảnh cho sự phân tích ở chương 2 và chương 3.
9
CHƯƠNG 2
KHẢO SÁT CÁC PHƯƠNG TIỆN TÌNH THÁI
TRONG CÂU VĂN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
2.1. KHẢO SÁT VÀ PHÂN LOẠI CÁC PHƯƠNG TIỆN TÌNH THÁI
NGỮ ÂM TRONG CÂU VĂN NGUYỄN HUY THIỆP
2.1.1. Ngữ điệu
Theo Đỗ Tiến Thắng ngữ điệu là “một hiện tượng ngôn điệu xảy ra ở
bậc câu của ngôn ngữ, được tạo thành từ hoạt động của các đặc trưng vật lý
cơ bản như cao độ, cường độ, trường độ…”. Các thành tố tạo nên ngữ điệu
trong phát ngôn tiếng Việt bao gồm:
a, Sự biến đổi của cao độ
b, Sự biến đổi cường độ hình tiết
c, Sự biến đổi về nhịp độ
Ngữ điệu là yếu tố ngữ âm của mọi phát ngôn. Khác với phát ngôn
bằng lời yếu tố ngữ điệu bao giờ cũng rõ rệt, trong văn viết ngữ điệu không
thật sự rõ rệt. Ngữ điệu trong văn bản thường được đánh dấu thanh điệu,
dấu lửng và dấu phẩy tách nhịp bằng dấu “…” và tách nhịp bằng dấu “,”.
Vì phát ngôn nào cũng có ngữ điệu nên chúng tôi chưa khảo sát định
lượng ngữ điệu của 37 truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mà chỉ khảo sát định
tính.
2.1.2 Trọng âm của câu
Chỉ sự nhấn giọng trong một phát ngôn nào đó để gây ấn tượng về từ
nào đó nhằm tập trung cho tiêu điểm thông tin.
2.2. KHẢO SÁT VÀ PHÂN LOẠI CÁC PHƯƠNG TIỆN TÌNH THÁI
TỪ VỰNG TRONG CÂU VĂN NGUYỄN HUY THIỆP
2.2.1. Các tiền phó từ làm thành phần phụ của ngữ vị từ
Phó từ luôn đứng trước vị từ, bổ sung ý nghĩa cho vị từ đồng thời
biểu thị những nội dung thuộc tình thái của sự tình. Theo TS. Bùi Trọng
Ngoãn có thể nhận diện ý nghĩa của của các tiền phó từ này theo 7 nhóm
làm tiền phó từ thành phần phụ của ngữ vị từ như sau:
a. Tiền phó từ biểu thị quan hệ thời gian: Biểu thị thời gian của tình
thái sự kiện
b. Tiền phó từ biểu thị lặp lại: Các phó từ biểu thị sự lặp lại của động
từ, trạng thái được nêu ra trong động từ trung tâm thể hiện tình thái của sự
kiện là chúng được lặp đi lặp lại, tiếp diễn và có tính tương tự những hiện
tượng trước đó.
10
c. Tiền phó từ biểu thị sự khuyến lệnh: Các phó từ này luôn luôn là ý
chí chủ quan của người nói và do vậy nghĩa tình thái của nó được xác định
từ hướng người nói. Khi dùng những phó từ này người nói muốn yêu cầu
người nghe phải thực thi một việc nào đó. Khi đã dùng các phó từ này tức là
dùng các dấu hiệu khuyến lệnh trực tiếp nhằm lưu ý người nghe về việc
phải làm.
d. Tiền phó từ chỉ mức độ: Các tiền phó từ này khi đứng trước động
từ tình thái, tính từ tình thái thì chúng mang nghĩa tình thái là bổ sung thông
tin về mức độ cho sự tình và tình thái của sự tình được biểu hiện ở từ đứng
phía sau nó.
e. Tiền phó từ biểu thị tần số: Nhóm tiền phó từ này, ngoài nghĩa sự
tình là thông tin về tần số còn có nghĩa tình thái là thái độ nhận thức và
đánh giá của người nói về việc lặp đi lặp lại của sự tình trong một khoảng
thời gian nào đó.
g. Tiền phó từ biểu thị hạn định: Tiền phó từ này mang nghĩa tình
thái là từ biểu thị phạm vi cho hành động, trạng thái được hạn định trong
một chừng mực khả năng nào đó
h. Tiền phó từ biểu thị nội dung phủ định: Trong 4 phó từ này thì từ
xuất phát nghĩa (từ gốc) là từ chẳng với ý nghĩa tình thái là trạng thái, hoạt
động mang tính phủ định được nhấn mạnh. Tùy theo mỗi cấp độ từ thấp đến
cao mà ý nghĩa phủ định mang tính nhấn mạnh dứt khoát hay sự giảm nhẹ
không dứt khoát. Theo đó các phó từ được sắp xếp theo mức độ tình thái từ
thấp đến cao như sau: không – chưa – chẳng – chả.
Bảng 2.1. Nhóm tiền phó từ làm thành phần phụ của ngữ vị từ
Stt Tiền phó từ Số lần xuất hiện Tỉ lệ %
1. Đã 35 0.05
2. Từng 27 0.04
3. Đang/đương 32 0.05
4. Vừa 40 0.06
5. Mới 33 0.05
6. Sẽ 40 0.06
7. Đều 27 0.04
8. Cũng 54 0.08
9. Vẫn 28 0.04
10. Cứ 25 0.04
11. Lại 29 0.04
12. Thường 37 0.05