Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Các chuyên đề về nguy cơ sức khỏe và một số bệnh đặc thù ở khu vực miền núi
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
' 1
fjm /
M M m W T M i
•ys*
K
**?•
,
-
•«!
•¿!S '
¿1]
irv.i¿
Br
3/1A HH>I JO IflN N3IW
^ y ó
M im íM N lMOMOm ifl
gp uzfinyj ovj
O P ild A O Ó H IY Q D N Q A H *
O Ó H IV G 1 N IV H 1 0 A Í 3 N
1 i£8s00000'>10
II II
es 1
lililí 1
- ....................... ...... L -
Chủ biên:
PSG. TS. NGUYỄN THÀNH TRUNG
PGS. TS. NGUYỄN VĂN Tư
Thư kỷ biên soạn:
TS. PHẠM TRUNG KIÊN
Cán bộ tham gia biên soạn:
1. ThS. Lê Minh Chính 11. PGS. TS. Nguyễn Văn Sơn
2. ThS. Vũ Quang Dũng 12. TS. Nguyễn Qúy Thái
3. ThS. Hoàng Hà 13. ThS. Nông Ngọc Thảo
4. PGS. TS. Đỗ Hàm 14. ThS. Hứa Văn Thước
5. BSCKII. Phạm Quỳnh Hoa 15. ThS. Dương Minh Thu
6. PGS. TS. Đàm Khải Hoàn 16. TS. Trịnh Xuân Tráng
7. TS. Phạm Trung Kiên 17. BSCKII. Bùi Đức Trình
8. PGS. TS. Hoàng Khải Lập 18. ThS. Nguyễn Minh Tuấn
9. ThS. Nông Thị Loa 19. PGS. TS. Nguyễn Văn Tư
10. TS. Trần Đức Quý 20. ThS. Vũ Bích Vân
21. ThS. Hac Văn Vinh
2
LỜI NÓI ĐẦU
Đào tạo nguồn nhân lực y tế trình độ cao cho khu vực miền núi phía Bắc Việt
Nam là sứ mệnh của Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên. Không chỉ đào
tạo trong nhà trường các cán bộ y tế có trình độ bác sỹ, dược sỹ, điều dưỡng đại học
mà cả đào tạo sau đại học. Trường tham gia nhiều dự án và chương trình đào tạo lại
cán bộ y tế cho miền núi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ y tế ở khu vực khó
khăn. Dự án "Nâng cao năng lực đào tạo cán bộ y tế miền núi cho Trường Đại học Y
Dược - Đại học Thái Nguyên" do tổ chức Hợp tác các trường đại học Đông Nam Á
(SEMEO) thực hiện qua tài trợ của Quỹ Rockefeller là nhằm mục tiêu như vậy.
Trong khuôn khổ dự án, Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên tổ chức
biên soạn cuốn sách Chuyên để về nguy cơ sức khỏe và một số bệnh đặc thù ở
khu vực miền núi. Nội dung cuốn sách chia thành hai phần:
- Phần 1: Các chuyên đề về nguy cơ sức khỏe ở miền núi.
- Phần 2: Chuyên đề các bệnh thường gặp ở miền núi.
Cuốn sách là những kiến thức cơ bản và cập nhật các nghiên cứu gần đây của tập
thể các giáo sư tiến sỹ, bác sỹ của Trường đã nghiên cứu về cộng đồng miền núi đúc
kết lại. Sách cũng cập nhật các vấn đề mới hiện nay trèn thế giới về các vấn đề sức
khỏe J?ệnh tật đang hiện diện tại miền núi. Những nội dung này rất hữu ích cho các cán
bộ y tế đang công tác ở miền núi có thể tham khảo nhằm nâng cao khả năng chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe nhân dân khu vực miền núi, nơi còn nhiều khó khăn và nhiều đối
tượng chính sách. Những nội dung này là cơ sở cho xây dựng các chương trình đào tạo
lại nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ cho cán bộ y tế đang cõng tác tại cộng đổng.
Hoàn thành cuốn sách này, Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên cám
ơn các nhà khoa học, các thầy cô giáo ở các bộ môn đã giành nhiều cồng sức tập hợp
các nghiên cứu và biên soạn sách. Chúng tôi cũng xin cám ơn tổ chức Hợp tác giáo
dục đại học Đông Nam Á (SEMEO) và Quỹ Rockefeller Foundation đã tài trợ để hoàn
thành cuốn sách.
Trong quá trình biên soạn không thể tránh khỏi những thiếu sót, lại biên soạn lần
đầu nên chúng tỏi mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp để tái bản lần
sau được hoàn thiện hơn. Hy vọng cuốn sách sẽ là một trong những tài liệu tốt cho
công tác đào tạo lại đội ngũ cán bộ y tế miền núi và góp phần vào chăm sóc bảo vệ
sức khỏe nhản dãn các dân tộc miền núi Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách:
HIỆU TRƯỞNG
PGS.TS. NGUYỄN THÀNH TRUNG
MỤC LỤC
Phần ỉ Các chuyên đé vể nguy cơ sức khoè ở miền núi 7
1 Cộng đổng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu hướng cộng đồng 8
2 Chăm sóc dự phòng 18
3 Sử dụng số liệu trong hệ thống thông tin y tế để lập kế hoạch y tế 27
4 Thống kê y tố 37
5 Vệ sinh mồi trường nông nghiCp, nống thôn mién núi 49
6 Tai nạn thương tích và tai nạn giao thông ở Việt Nam 60
7 Lạm dụng rượu và nghiôn rượu 71
8 Nghiện ma tuý 79
9 Tư vâh trong phòng chống HIV/AIDS 95
10 Văn hoá và vận dụng hiểu biết vãn hóa chăm sóc sức khoẻ cho các
tộc người thiểu số miền núi phía Bắc
111
11 Tập quán dinh dưỡng ở một số dân tộc thiổu số miổn núi phía Bắc 125
12 Cận thị học đường 140
13 Chăm sóc răng miệng 152
Phần II Chuyên đề các bệnh thường gặp ờ miền núi 167
1 Làm me an toàn • 168
2 Thiếu máu ở phụ nữ có thai với cộng đồng người dân tộc miền núi 188
3 Lồng ghép chăm sóc trẻ bộnh 202
4 Suy dinh dưỡng ở trẻ em 217
5 SARS và bênh cúm A (II5N1) 242
6 Bênh lao ề 261
7 Sốt rét 275
8 Tăng huyết áp 288
9 Đái tháo đường 304
10 Tai biến mach máu não « 323
11 Thalassemia 340
5
Phấn I
CÁC CHUYÊN
VỀ NGUY CO SỨC KHỎE
Ỏ MIỀN NÚI
7
CỘNG ĐỔNG
VÀ CHĂM SÓC SỨC KHOẺ BAN ĐẤU HƯỚNG CỘNG ĐỔNG
Hoàng Khải Lập
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VE CỘNG ĐỖNG • • •
1.1. Định nghĩa một cộng đổng
Một cộng đồng là một nhóm người có một sô" điểm chung và họ biết cũng
như nhận thức được những điểm chung đó.
Một cộng đồng có thể tồn tại dưối nhiều dạng khác nhau:
- Những cộng đồng về địa lý có thể bao gồm một vùng, một thị trấn hoặc
một nhóm nông trại trải dài trên phạm vi rộng.
- Một cộng đồng đồng nhất là một nhóm người có những mối quan tâm
chung dựa trên tính tương tự về nghể nghiệp, văn hoá, hiểu biết, tôn giáo
hoặc các hoạt động giải trí.
- Do các mốì quan hệ xả hội ngày càng mở rộng, các cộng đồng đồng
nhất trên được coi là quan trọng hơn nhiều trong vai trò chăm sóc sức
khoẻ. Các cá thể có thể đồng thời thuộc về vài cộng đồng lại cùng một
thời điểm và sô" thành viên có xu hướng dễ thay đổi. Người cán bộ y tế
hưống tối cộng đồng phải nhận thức được các nguồn lực hỗ trợ sẵn có
của cộng đồng với người bệnh và sẵn sàng sử dụng chúng cho việc chăm
sóc sức khoẻ tối ưu.
Theo tuyên ngôn Alma Alta, cộng đồng là một nhóm người cùng chung
sống trong một hoàn cảnh đặc thù, giông nhau về tể chức và liên kết xã hội.
Trong cộng đồng, các thành viên sổng, gắn bó đ những mức độ khác nhau
và cùng chia sẻ những lợi ích, nguyện vọng chung trong đó có vấn đề sức khoẻ.
Cộng đồng có kích thưóc và mặt bằng xã hội khác nhau từ cụm nhỏ dân cư nông
thôn sản xuất cách biệt đến xã, phường, thành thị vói cấu trúc phức tạp.
1.2. Vai trò và sự tham gia của cộng đồng trong chảm sóc sức khoẻ
Khái niệm về tham gia cộng đồng đã có từ những năm 1970, đó là một quá
trình trong đó cá thể, người dân, gia đình và cộng đồng có trách nhiệm tự lo bảo
vệ sức khoẻ cho chính bản thân mình để đóng góp vào sự phát triển của chính
mình và của cộng đồng. Theo ngân hàng thế gói (World Bank): là sự tham gia
8
của những người đưa ra những quyết định và của sô" đông thực hiện các quyết
định ấy và cùng chia sẻ các lợi ích của quyết định mang lại.
Cách thức và các yếu tố ảnh hưỏng đến sự tham gia của cộng đồng trong
chăm sóc sức khỏe: có nhiều cách thức cộng đồng tham gia chăm sóc sức khoẻ
như bằng cách xác định nhu cầu chăm sóc tối thiểu, như xác định các vấn đề
sức khoẻ ưu tiên. Cộng đồng tham gia lập kế hoạch giải quyết các vấn đề sức
khoẻ ưu tiên, triển khai, đánh giá.... Trong cộng đồng có cán bộ lãnh đạo địa
phương, họ có vai trò rất quan trọng là những người quyết định, đưa ra các
quyết định để các thành viên trong cộng đồng tham gia thực hiện kế hoạch
chăm sóc sức khoẻ.
Sự tham gia của cộng đồng trong chăm sóc sức khoẻ vối các mức độ khác
nhau: do trong cộng đồng nhất là cộng đồng nông thôn miền núi, cộng đồng các
dân tộc thiểu sô", trình độ vản hoá, sự hiểu biết và mức độ giác ngộ của cộng đồng
còn thấp, mặt khác đòi sống họ có nhiều khó khăn cho nên cần phải có giáo dục,
phải có kích thích bằng vật chất, tinh thần v.v... để động viên họ tham gia. Khi
người dân đả hiểu rõ vân để tham gia cộng đồng, nhưng chưa biến thành hành
động, đòi hỏi cần phải có các quyết định hành chính để họ tham gia. Khi người
dân đả xác định được nghĩa vụ và quyền lợi của họ trong chăm sóc sức khoẻ, họ
có thê tự nguyện tham gia chăm sóc sức khoẻ ỏ mức độ cao hơn như tích cực,
sáng tạo và hỗ trợ trong các chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Ngày nay, ở nước ta sự tham gia của cộng đồng trong chăm sóc sức khoẻ
chính là xã hội hoá sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Vấn để này
được thế hiện rất rõ trong quan điểm của Đảng về công tác y tế: Vấn đề xã hội
hoá sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân là trách nhiệm của mỗi cá nhân và
mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, của các cấp Uy, Đảng, Chính quyền, các ngành,
các đoàn thể, các tố chức xã hội. Các cấp ủy, Đảng, Chính quyền, các ngành, các
đoàn thê có trách nhiệm lảnh đạo, chỉ đạo, huy động các nguồn lực, động viên
toàn xả hội tham gia công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Vai trò và cách thức tham gia của cộng đồng trong chăm sóc sức khoẻ có
thê thay đối và phụ thuộc một phần vào trình độ vản hoá, kinh tế và tổ chức xã
hội ỏ mỗi giai đoạn lịch sử xă hội và đặc điểm năng lực của cá thể trong cộng
đồng. Trong chừng mực, hoàn cảnh nhất định nào đó các yếu tô" trên lại ảnh
hưởng đến sự tham gia của cộng đồng.
Trong cộng đồng nhiều ngưòi cùng chung sông, mỗi ngưòi có một thái độ
và cá tính ứng xử khác nhau vì vậy mỗi người đều có thể ảnh hưởng tác động
đến cộng đồng và ngược lại.
Trình độ hiểu biết của các thành viên trong cộng đồng có khác nhau, điều
này ảnh hưởng rất lớn tói sự tham gia của cộng đồng. Một cộng đồng có trình độ
hiếu biết càng cao, càng rộng thì sự tham gia ảnh hưỏng tích cực đến cộng đồng
càng lớn, đặc biệt trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
9
Nhu cầu sức khoẻ của các thành viên trong cộng đồng ở mỗi thời điểm, mỗi
nơi có khác nhau và ngày càng tăng cao, sự phát triển nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ đồng thòi cũng thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng v.v...
Các yếu tô"chính trị, xã hội, văn hoá, phong tục tập quán, tín ngưỡng v.v...
đểu có ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng. Trong các ảnh hưởng của xả
hội tới sự tham gia của cộng đồng cần đặc biệt chú ý những yếu tô" làm cản trở
sự tham gia của cộng đồng vào chăm sóc sức khoẻ như bộ máy quản lý cồng
kềnh, tình trạng quan liêu của các cấp lãnh đạo địa phương. Chưa có chính sách
huy động nguồn lực cộng đồng, cấu trúc hệ thống dịch vụ y tế chưa thích hợp,
họat động chăm sóc sức khoẻ chưa hướng tới và chưa dựa vào chăm sóc sóc khoẻ
ban đầu V.V.... Vì v ậ y , người c á n b ộ y t ê cần nhận thức rõ ý nghĩa, vai trò và s ự
tham gia của cộng đồng trong chăm sóc sức khoẻ.
1.3. Vai trò hỗ trơ xã hôi đối với sức khoẻ • •
ề
Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và hàng xóm tạo ra một mạng lưới xã hội hỗ
trợ cho các cá thể, góp phần tạo nên sự thoải mái trong cuộc sống và sức khoẻ
của người bệnh.
Mối quan hệ chật chẽ giữa sự hỗ trợ của xã hội và sức khoẻ cá thể đã được
Berkman và Syme chứng minh. Hai tác giả này đã theo dõi 4.756 đối tượng
trong 9 năm. Hai nhà nghiên cứu thấy những người được hỗ trợ của môi trường
xã hội có xu hưóng khoẻ mạnh hđn và đối phó vối các stress tốt hơn so với
những người thiếu một môi trường hỗ trợ. Những kết quả nghiên cứu này rất lợi
cho thầy thuốc, đặc biệt là thầy thuốc hoạt động tuyến y tê cơ sở, cấc thầy thuốc
gia đình họ có thề sử dụng mạng lưới hỗ trợ bệnh nhân hiện có để động viên
chăm sóc bệnh nhân hiện có tại gia đình.
Qua hoạt động thực tế, ngưòi thầy thuốc làm việc ỏ cộng đồng, gia đình có
thể chọn những nđi nào có môi trường hỗ trợ xã hội tốt thì có thể chuyển bệnh
nhân tới đó thực hiện việc chăm sóc sẽ có hiệu quả hơn. ẹ W 9 • ể
Phương pháp để đánh giá độ bền vững của mạng lưối hỗ trợ các cá thể
bệnh nhân là người thầy thuốc phải nắm và được liệt kê các mạng lưới xã hội có
trong cộng đồng.
Để có khái niệm về việc hỗ trợ xã hội đến sức khoẻ con người như thế nào
chúng ta có thể tham khảo công thức sau:
Stress + Sự dễ thương tổn về thể chất
Một cá thể ốm = ---------------------------------------------- -----------------------
Hệ thống hỗ trợ xả hội + Kỹ năng đương đầu với các khó khăn
Trên thực tế, có nhiều stress về xã hội như phân biệt chủng tộc, phân biệt
giói tính, hay tình trạng nghèo đói mà các cá nhân đơn thuần không thể loại bỏ
hoặc giảm đi được. Do đó việc nhận biết được các phản ứng khác nhau của cá
thể đối với các stress, việc tăng cường hỗ trợ xã hội của từng cá thể, kỹ năng
đương đầu vối các thách thức và các khả năng thích hợp là rất quan trọng.
10
Người thầy thuốc cần cho bệnh nhân biết về lợi ích của hỗ trợ xã hội đối vối sức
khoẻ và đưa ra các hành động nhằm tăng cường quan hệ xã hội và cộng đồng.
Có nhiểu cách có thể làm tăng hoạt động xả hội trong cộng đồng để hỗ trợ
cho sức khoẻ như:
- Việc tái lập ra các chương trình hoạt động, lỏp học, các nhóm tự giúp đỡ
nhau trong cộng đồng.
- Cùng tổ chức các bữa ăn vối nhau tại trung tâm cộng đồng.
- Khuyến khích những người vê' hưu tham gia các hoạt động tình nguyện vì
cộng đồng.
- Các nhân viên y tê có thể toi chức các nhóm hỗ trợ trong cộng đồng (như
thành lập một nhóm trông trẻ, một nhóm giải trí, câu lạc bộ v.v...).
1.4. Văn hoá y tế tro n g cộng đồng
Khái niệm về văn hoá y tê đã xuất hiện từ lâu. Ngay từ năm 1871, nhà
nhân học người Anh Edward Tylor đả cho rằng: "Văn hoá là một tổng thể phức
tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và các
khả năng thói quen khác mà con người thủ đắc là một thành viên của xả hội".
Trong những năm gần đây đả có nhiều tài liệu biên soạn về "các nhóm văn
hoá " như:
- Văn hoá tiêu dùng
- Văn hoá ứng xử
- Văn hoá tín ngưỡng
Tuy nhiên, khái niệm về văn hoá y tế hay văn hoá sức khoẻ còn ít được đề
cập đến. Đả có một sô" tác giả cho rằng văn hoá y tế là hành vi ứng xử của mỗi
cá nhân hay cộng đồng trước vấn đề sức khoẻ, bệnh tật của bản thân và của
cộng đồng. Hay nói cách khác văn hoá y tế bao gồm tri thức, kinh nghiệm, sự
tìm kiếm, phản ứng của một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó trước sức khoẻ,
bệnh tật và cả thiết chế y tế mà họ đang sống cùng.
Cho dù trên thực tế có thể có nhiều cách nói khác nhau, nhưng mọi người
đều thừa nhận rằng môi trường văn hoá ảnh hưỏng tới súc khoẻ theo nhiều
cách khác nhau như truyền thống, phong tục tập quán, tín ngưõng và các hành
vi sức khoẻ v.v...
Có nhiều yếu tô' tham gia vào quá trình hình thành văn hoá y tế như:
- Quan niệm về bệnh tật hay ốm đau
- Hành vi tìm kiếm sức khoẻ
- Thuốc và cách dùng thuổc
- Loi sông (có lợi và có hại cho sức khoẻ)
11
- Hệ thống hỗ trợ xã hội (quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp v.v...)
- Các quan niệm về sức khoẻ, kiến thức, thái độ và trình độ dân trí
Trong các yếu tô" trên, hành vi tìm kiếm sức khoe là yếu tố quan trọng bậc
nhất trong các yếu tô' hình thành vàn hoá y tế, đồng thòi nó củng là vấn để cơ
bản của văn hoá y tế. Hành vi sức khoe là một khái niệm quan trọng của văn
hoá y tế. Khái niệm này dùng đê’ chỉ toàn bộ các ứng xử của con người đối với
các hoạt động tăng cường, phòng chống và chữa trị bệnh; đó là các phản ứng của
con người trước những vấn để của sức khoẻ trong những môi trường sống cụ thể
và môi trường xã hội.
Các hành vi sức khoẻ không phải là các ứng xử ngẫu nhiên. Nó là sự phản
ánh các quan niệm, giá trị các chuẩn mực về sức khoẻ mang tính xã hội. Vì vậy,
việc nghiên cứu tìm hiểu văn hoá y tê có thể góp phần vào quá trình tìm hiểu
các vấn đế sức khoẻ, cũng như các giải pháp nâng cao sức khoẻ của một nhóm
cộng đồng dân cư thông qua các hành vi chăm sóc sức khoẻ của họ.
Hiện nay, đã có nhiều tài liệu cho rằng có nhiều yếu tố tác động đến hành
vi sức khoẻ của người dân. Các yếu đó có thể tóm tắt như sau:
- Trạm y tê và bệnh viện các tuyến
- Sự xuống cấp về các cơ sở vật chất của các trạm y tê xã
- Sự phát triển nhanh chóng hệ thống các cơ sở y tế tư nhân
- Việc thực hiện không tốt chức năng chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở các cơ sở y
tế công
- Vấn đề an sinh xã hôi
- Vấn đê' bảo hiểm y tế
- Chế độ đãi ngộ đối vối nhân viên y tế chưa tưđng xứng vối lao động nghề
nghiệp của họ
- Sự phát triển mạnh của kinh tế thị trưòng tạo ra nhiều loại dịch vụ xã • r • • W • • t I
hội mới
- Các chương trình kinh tế, xã hội của nhà nưóc đang tập trung vào khu
vực nông thôn v.v...
Văn hoá không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và khả năng bảo vệ
sức khoẻ của cộng đồng, văn hoá còn ảnh hưởng gián tiếp tới tình trạng sức
khoẻ thông qua những thay đổi của tập quán canh tác trong sản xuất, phát huy
vai trò dòng họ trong sản suất và thay đổi tập quán chi tiêu, ăn uống trong đòi
sống hàng ngày của cộng đồng.
Các nghiên cứu của Trần Văn Hà, Lê Minh Anh tại một số vùng đồng bào
người dân tộc thiểu số đã cho thấy các quan hệ dòng họ được củng cô" tại nông
thôn (xóm Kẻ Mui, xã Giai Xuân, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An) đã góp tiền tu
12
sửa nơi thờ tổ ỏ nhà tộc trưởng. Số tiền quĩ được trưởng họ ghi chép và khi chưa
dùng đến thì có thể cho vay lãi. Điều đáng được quan tâm là các dòng họ đã có
sự liên kết, hợp tác đổi công và tương trợ trong sản xuất, ví dụ như liên kết giữa
những người trong họ sử dụng sức kéo trâu, bò để cày kéo trong sản xuất. Trong
các loại liên kết thì liên kết, tương trợ lao động của các hộ trong trồng lúa (ỏ các
khâu làm đất, gieo trồng, thu hoạch và vận chuyển là khá phổ biến ở các vùng
nông thôn miền núi v.v... Những quan hệ trong cuộc sống hàng ngày nói trên đã
tạo điều kiện trong dòng họ tổ chức và thực hiện sản suất tốt hơn, góp phần cải
thiện mức sống và chăm lo sức sức khoẻ của chính họ.
Tập quán canh tác cũng là một yếu tô" văn hoá truyền thống lâu đời của
một sô" dân tộc thiểu sô". Từ năm 1999 nhiều vùng nông thôn miền núi đã thay
đối tập quán độc canh cây lúa nương, cây ngô năng suất thấp sang cây trồng
khác như cây mía có năng suất cao hơn v.v...
Tập quán chi tiêu, ăn uống ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng là
một hình thái văn hoá cần được quan tâm. Bởi vì, sự chi tiêu này đã ảnh hưởng
một phần không nhỏ tới tình trạng an ninh lương thực hộ gia đình và từ đó ảnh
hương tỏi tình trạng sức khoẻ các thành viên trong hộ gia đình và cộng đồng.
Nghiên cứu của tác giả Trần Văn Hà và Lê Minh Anh viện Dân tộc học, tiến
hành tại xóm Kẻ Mui, xã Giai Xuân, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An đã cho thấy
mức chi phí của hộ gia đình cho lương thực, thực phẩm tương đương vối mức chi
phí lễ nghi, thăm viếng trong năm và đều ở mức chi tiêu tối đa (24%). Thông
thường chi phí lễ nghi và thăm viếng của hộ gia đình mở rộng ở mức tốn kém
hơn, nhất là chủ gia đình ỏ vị trí con trưởng. Nếu nhìn từ sự phân loại mức sống
kinh tế, sô" liệu điểu tra hộ gia đình cũng cho thấy mức chi phí khác nhau khá
rõ rệt đối với hai loại chi phí. Mức chi phí cụ thể ở các loại hộ khá phổ biến từ 2
đến 3,5 triệu đồng, trong đó các hộ nghèo và thiếu đói dao động ở hai mức: từ
500.000đ đen 700.000đ và từ l.OOO.OOOđ đến 1.200.000đ /năm. Đặc biệt khi tổ
chức đám cưới, có dân tộc tổ chức àn uống 2 ngày bên nhà trai và một ngày bên
nhà gái, chi phí trung bình có thế lên tới 8 - 10 triệu đồng. Chi cho đám tang thì
ít hơn, nhưng cỗ bàn mòi họ tộc, trong thôn, ngoài làng cũng diễn ra hai ngày,
tốn từ 3 đến 4 triệu đồng. Việc tổ chức cỗ bàn và tiệc tùng vào các dịp cúng họ
cũng là một khoản chi phí không nhỏ V.V.... Những chi phí như vậy là rất lớn so
với mức thu nhập của một thôn nghèo.
Ngoài các tục lệ trên, thói quen uống rượu hàng ngày của các thành viên
nam làm cho các hộ gia đình thiếu lương thực càng thêm khó khăn. Nhiều người
cho rằng, ngưòi nghiện rượu đa sô" thuộc hộ nghèo. Vói những người này, dù
không có tiền mua thịt, cá cho bữa ăn của gia đình nhưng vẫn phải mua rượu ở
quầy hàng bàng cách ghi sổ nợ. Do nhu cầu sử dụng rượu quá lốn, nhiều hộ gia
đình đã sử dụng một lượng lương thực để nấu rượu, đây cũng là một trong
những lý do dẫn tới bất an toàn lương thực trong gia đình, làm tăng các nguy cơ
có hại cho sức khoẻ các thành viên trong gia đình và cộng đồng.
13
ở các dân tộc khác nhau, một số phong tục tập quán cũng khác nhau:
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Đăng Hiên và Trần Mai Lan vể “Ánh hưởng
của các yếu tô' xã hội và văn hoá tới tình trạng lương thực của người Dao tại
huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn” đã cho thấy: trong cuộc sống của người Dao có
những công việc do phong tục và quan niệm truyền thống, hộ gia đình phải thực
hiện những khoản chi tiêu lớn ảnh hương đến an toàn lương thực của hộ gia
đình. Đó là khi làm nhà mới, những dịp đám cưổi, đám tang, lễ tết, lễ cấp sắc...
tốn kém nhiều tiến bạc và lương thực. Người Dao ỏ Bản Lù xã Tân Sơn, huyện
Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn ăn tết năm trong thòi gian khoảng nửa tháng (từ 20
tháng Chạp đến mùng 3 tết âm lịch). Trong dịp này, mỗi nhà mổ thịt riêng một
con lợn, to nhỏ tuỳ khả năng mỗi gia đình (thường từ khoảng 30 - 40 kg) v.v...
Lễ cấp sắc là một việc trọng đại và cũng là khoản chi tiêu lớn của người
Dao. Người được thụ lễ phải chuẩn bị 20m vải trắng, lm vải đỏ, 5000 - 6000 tò
giấy vàng, 50 - 100 tờ giấy đỏ, 3 - 5 con lợn, mỗi con từ 50 kg trở lên, 100 - 150
lít rượu, 1 tạ gạo, 4 - 5 con gà to, 8 đùi lợn làm quà biếu và tiền công các thầy
cúng từ 2,5 - 3 triệu đồng. Một lễ cấp sắc thưòng kéo dài trong 3 ngày 3 đêm.
Sau khi các thầy cúng viết đủ các giấy số (1 ngày 1 đêm), người tổ chức cúng
liên tục và làm cỗ mời anh em họ hàng, bà con gần xa trong bản, ngoài bản.
Người Dao quan niệm rằng trong ngày lễ cấp sắc càng có nhiều người đến ăn thì
ngưòi thụ lễ càng có lộc. Do đó dù tôn kém bao nhiêu, gia chủ vẫn mong có
nhiều người đến ăn cỗ, uống ruỢu. Chi phí cho một lễ cấp sắc thường là
3.000.000đ đến 4.000.000 đ.
Như vậy, trong cộng đồng các dân tộc, đặc biệt là cộng đồng các dân tộc
thiếu số khu vực miền núi còn tồn tại nhiều hình thái văn hoá làm ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp tới sức khoe cộng đồng và ảnh hưởng tới sự tham gia của
cộng đồng vào việc chăm sóc sức khoẻ cho chính bản thân họ.
Từ thực tế trên trong giai đoạn hiện nay người cán bộ y tế, đặc biệt là cán
bộ y tê cơ sỏ cần được trang bị những kiến thức tổng quát về các khái niệm cơ
bản trong một xã hội nhất định để thấy được mối quan hệ hữu cơ trong việc xem
xét và chăm sóc sức khoẻ hưống cộng đồng có hiệu quả.
2. CÁC NGUỒN L ực CỦA CỘNG ĐồNG VÀ s ử DỤNG NGUồN L ự c
CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CHẢM SÓC s ứ c KHOẺ
2.1. Khái niệm về các nguồn lực của cộng đồng
Các nguồn lực của cộng đồng là rất lớn bao gồm: các dịch vụ, các cơ quan,
đoàn thế và các nhóm hỗ trợ có khả năng giúp đõ các thành viên của cộng đồng
v.v...
14
Bảng 1. Các nguồn lực cộng đổng có thể được liệt kê như sau:
Loai• Ví dum
Các cơ quan y tế Khoa y, bệnh viện, PKĐK, y tế tại nhà
Các dịch vụ cấp cứu Cứu hoả, cấp cứu, cảnh sát
Các dịch vụ cho phụ nữ Trung tâm nguồn lực cho phụ nữ, các dịch vụ giúp
đỡ cho phụ nữ và trẻ em bị lạm dụng
Các cơ quan khu vực và nhà nước Các cảu lac bỏ, thư viên • • * •
Các càu lạc bộ và các chương trình tập
luyện Trường học, bể bơi, công viên
Dich vu cho các nhóm người đăc biêt Người tàn tật, người già, vị ỉhành niên, trẻ em
Các dịch vụ liên quan đến rượu và
nghiên hút
Đường dây giúp đỡ, nhóm những người nghiện rượu
ẩn danh
Sức khoẻ tâm thần và dich vu tư vấn • •
Quản lý stress, trung tâm sức khoẻ tâm thẩn và tri
liêu•
Các dịch vụ liên quan đến kế hoạch
hoá gia đình và nạo thai Kế hoạch hoá gia đình, nơi phá thai
Các trung tâm truyền thông giáo dục
sức khỏe công cộng
Trung tám tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS
Trung tàm tư vấn dinh dưỡng cộng đổng
Trung tâm tư vấn tim việc làm, giới
thiệu việc làm, phục hổi chức năng
nghề nghiệp
Các hội và các hội nghề nghiệp - Hội người cao tuổi,
- Các hội nghề nghiệp
Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc như dân tộc Tày,
Nùng, Dao, H’Mông v.v... đã bao đòi nay còn tồn tại những giá trị tinh thần đạo
đức như đức thương người, lòng chung thuỷ, kính già yêu trẻ. Mặt khác do đặc
thù truyền thông các dân tộc và sự tồn tại các quan hệ làng xóm, láng giềng đã
từ lâu xuất hiện hình thái già làng, trưởng bản. Vị trí các già làng trưởng bản ỏ
các xã vùng cao hẻo lánh, vùng biên giới phía Bắc có uy tín nhất định trong việc
giải quyết các mối quan hệ hàng xóm, láng giềng, làng xã và cũng như việc huy
động cộng đồng tham gia vào các công việc của xã hội. Mặc dù đây không phải là
một cơ quan hay tổ chức đoàn thế trong xã hội, nhưng cán bộ y tế cơ sở cần nắm
vững các đặc điểm văn hcá này để phát huy và sử dụng nguồn lực cộng đồng đặc
thù này trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân các dân tộc khu vực miền núi.
Việc sử dụng hợp lý nhiều nguồn lực cộng đồng sẵn có là một kỹ năng
quan trọng của một người bác sỹ gia đình, bác sỹ cộng đồng. Việc sử dụng
những nguồn lực này đòi hỏi người bác sỹ nhận thức được cái gì phải biết về
những nguồn lực thường xuyên được sử dụng và biết được làm thế nào để tìm ra
nguồn lực mói khi họ thấy cần thiết trong quá trình chăm sóc bệnh nhân.
15