Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xuất nhập khẩu Việt Nam sau hội nhập WTO
PREMIUM
Số trang
313
Kích thước
8.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1988

Xuất nhập khẩu Việt Nam sau hội nhập WTO

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM

SAU HỘI NHẬP WTO

2

3

BỘ CÔNG THƯƠNG

XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM

SAU HỘI NHẬP WTO

(BỘ SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG

HÀ NỘI  2010

4

Mã số:HN04ĐH10

5

LỜI NÓI ĐẦU

Ngày 11 tháng 01 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ

150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một thời điểm rất đáng

ghi nhớ của Việt Nam sau 12 năm kiên trì tiếp xúc, đàm phán để gia nhập WTO.

Sự kiện này đã đánh dấu một bước tiến mới của Việt Nam trên đường hội nhập

sâu vào nền kinh tế thế giới.

Việc trở thành thành viên tổ chức WTO không chỉ mang lại những cơ hội

thuận lợi mà cả những thách thức đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Từ

đó tới nay đã hơn ba năm, thời gian chưa phải là dài nhưng cũng đủ để nhìn lại,

phân tích, suy ngẫm và rút ra bài học cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của

Việt Nam.

Với tinh thần đó, Nhà xuất bản Công Thương đã tổ chức biên soạn cuốn

“Xuất nhập khẩu Việt Nam sau hội nhập WTO”. Bằng những số liệu mới

nhất về kết quả xuất nhập khẩu của Việt Nam trong hơn ba năm qua, chi tiết tới

những mặt hàng quan trọng, thị trường và bạn hàng chủ yếu, cuốn sách “Xuất

nhập khẩu Việt Nam sau hội nhập WTO” không chỉ đưa ra các số liệu mà còn có

những phân tích đánh giá khách quan, logic, khoa học về những ưu, nhược điểm

của ngoại thương Việt Nam sau hơn ba năm gia nhập WTO. Đây là cuốn sách

duy nhất đến thời điểm này tập hợp đầy đủ số liệu và có những phân tích đánh

giá hoạt động xuất nhập khẩu từ khi gia nhập WTO đến nay.

Cuốn sách gồm bốn chương:

Chương 1: Tổng quan xuất nhập khẩu Việt Nam thời kỳ mở cửa trước hội

nhập WTO 1986-2006.

Chương 2: Thực trạng xuất nhập khẩu và cán cân thương mại Việt Nam ba

năm sau hội nhập WTO.

6

Chương 3: Mặt hàng và thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu ba năm sau hội

nhập WTO.

Chương 4: Kết quả xuất nhập khẩu với nước bạn lớn, bạn hàng lớn ba năm

sau hội nhập WTO

Với những nội dung trên, Nhà xuất bản Công Thương hy vọng cuốn sách

Xuất nhập khẩu Việt Nam sau hội nhập WTO không chỉ là tài liệu quý đối với

các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu kinh tế mà còn rất hữu ích đối với các doanh

nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và những độc giả quan tâm. Trong quá trình

thực hiện khó tránh khỏi những sơ suất, Nhà xuất bản Công Thương mong nhận

được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện cuốn sách trong những lần tái bản

tiếp theo.

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về:

Nhà xuất bản Công Thương

Địa chỉ: 46 Ngô Quyền, Hà Nội

Điện thoại: 04- 3826 0835 Email: [email protected]

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG

7

Chương 1

TỔNG QUAN XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM

THỜI KỲ MỞ CỬA TRƯỚC HỘI NHẬP WTO

(1986 - 2006)

Ngày 11 tháng 01 năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành

viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO - World Trade

Organization), mở ra một thời kỳ hội nhập quốc tế mới sâu rộng và toàn

diện với nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế nói chung, lĩnh vực ngoại

thương (xuất nhập khẩu) nói riêng ở nước ta. Tuy nhiên, trước khi trở

thành thành viên chính thức của WTO, xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng

đã phát triển mạnh mẽ cả về qui mô thị trường, số lượng mặt hàng cũng

như kim ngạch xuất và nhập khẩu trong thời kỳ đổi mới, mở cửa khá dài

trước hội nhập WTO từ năm 1986 đến năm 2006. Trong quá trình chuẩn

bị ra sân chơi toàn thế giới, thương mại Việt Nam cũng đã từng bước vươn

ra tham gia các sân chơi có tính chất khu vực với phạm vi khác nhau, như

Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN năm 1995); Diễn đàn kinh tế

châu Á Thái Bình Dương (APEC năm 1998); bình thường hoá quan hệ

ngoại giao với Mỹ và trở thành quan sát viên của WTO từ năm 1995, ký

kết Hiệp định thương mại với 61 nước, trong đó có Mỹ (tháng 7 năm

2000)… đã tạo đà phát triển mạnh mẽ và là những bước đệm quan trọng

trước khi chính thức gia nhập WTO.

1.1 QUAN HỆ NGOẠI THƯƠNG PHÁT TRIỂN MẠNH THỜI KỲ

MỞ CỬA TRƯỚC HỘI NHẬP WTO

Ngoại thương Việt Nam trong một thời kỳ bao cấp khá dài chủ yếu

chỉ tập trung quan hệ ở trong phạm vi các nước xã hội chủ nghĩa (khu vực

I) mà Liên Xô và các nước Đông Âu có vị trí quan trọng nhất. Nhưng từ

khi có đường lối đổi mới phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,

vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, với đường lối đối ngoại mở cửa, đa phương hóa,

đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế thì hoạt động xuất nhập khẩu

8

nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, phát triển mạnh cả về chiều

rộng và chiều sâu.

Từ số nước có quan hệ thương mại với Việt Nam là 40 nước, trong đó

33 nước có quan hệ xuất khẩu và 33 nước có quan hệ nhập khẩu trong

năm 1985. Khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, mở cửa chuyển nền kinh tế từ

cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang hoạt động

theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đánh dấu bằng

Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI của Đảng vào cuối năm 1986 đã lên 56

nước trong năm 1990, rồi tăng rất nhanh lên 100 nước trong năm 1995, lên

142 nước trong năm 1996. Chỉ sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới,

mở cửa thị trường xuất nhập khẩu nước ta đã gấp hơn 3 lần so với năm

1985. Hàng hoá Việt Nam đã xuất khẩu đến 132 nước trên thế giới (tăng

gấp hơn 4 lần sau 10 năm đổi mới, mở cửa). Tương tự, thị trường nhập

khẩu hàng hóa của Việt Nam cũng từ 33 nước trong năm 1985 đã lên 110

nước trong năm 1996, sau 10 năm đổi mới, mở cửa hàng hóa của nước ta

đã có mặt tại 110 nước khác nhau (gấp hơn 3 lần so với 10 năm trước đó).

Có thể thấy, thời điểm khó khăn nhất về thị trường xuất nhập khẩu

hàng hóa của Việt Nam trong những năm đầu đổi mới, mở cửa trước khi

chính thức hội nhập WTO là vào năm 1991, khi toàn bộ thị trường truyền

thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô bị mất đi một cách

chóng vánh đã làm cho hoạt động xuất nhập khẩu nước ta rơi vào tình

trạng hụt hẫng rất lớn. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương từ mức gần 5,2

tỷ USD, trong đó xuất khẩu hơn 2,4 tỷ USD (bình quân 36,6 USD/người),

kim ngạch nhập khẩu gần 2,8 tỷ USD trong năm 1990 đã xuống chỉ còn

hơn 4,4 tỷ USD về tổng mức lưu chuyển, trong đó hơn 2 tỷ USD kim

ngạch xuất khẩu, bình quân chỉ còn 31,2 USD/người và kim ngạch nhập

khẩu chỉ còn hơn 2,3 tỷ USD với các tỷ lệ đã giảm tương ứng so với năm

1990 lần lượt là: -14,2%, -13,2%, -14,9% và -15%. Có thể nói đây là một

“cú sốc” rất lớn đối với thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam trong

năm 1991. Sở dĩ chúng ta bị sốc mạnh từ sự kiện các nước xã hội chủ

nghĩa (XHCN) Đông Âu và Liên Xô tan rã là do chúng ta đã có một thời

gian rất dài lệ thuộc quá lớn vào các thị trường truyền thống này. Tuy

nhiên, từ đây cũng cho chúng ta thấy, trong “cái khó lại ló cái khôn” của

Việt Nam và nhờ có đường lối đối ngoại đổi mới, mở cửa, đa phương hóa,

đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế đúng đắn của Đảng, nên chỉ trong

9

một thời gian rất ngắn sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan

rã chúng ta đã không những chỉ tìm được thị trường xuất nhập khẩu thay

thế mà còn mở rộng, phát triển với số lượng thị trường lớn hơn rất nhiều:

từ số nước có quan hệ ngoại thương với nước ta là 57 nước, trong đó có 51

nước xuất khẩu, 42 nước nhập khẩu năm 1991 đến năm 1995 đã tăng gần

hai lần với 100 nước có quan hệ trong đó 97 nước xuất khẩu, 72 nước

nhập khẩu, trong khi đó gần như toàn bộ thị trường truyền thống Đông Âu

và Liên Xô đã bị mất.

Khu vực thị trường xuất nhập khẩu mà Việt Nam đã tìm được để thay

thế cho các thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô bị mất đi trong

giai đoạn 1991 - 1995 chủ yếu là các thị trường trong khu vực Đông Nam

Á và Đông Á. Điều đó đã được thể hiện ở sự thay đổi về thị phần kim

ngạch xuất nhập khẩu của các khu vực thị trường này, trong khi tỷ trọng

của khu vực Đông Âu từ chiếm 58% trong giai đoạn 1986 - 1990 đã xuống

chỉ còn 5,4% trong giai đoạn từ 1991 - 1995 thì tỷ trọng của các nước khu

vực Đông Nam Á đã từ chiếm 7,4% lên 27%; khu vực Đông Á từ chiếm

12,9% lên 43,2%. Ngoài ra, tỷ trọng của một số khu vực thị trường khác

xa hơn cũng đã có những chuyển biến ban đầu khả quan, như tỷ trọng của

khu vực thị trường Tây Âu đã từ chiếm 6,6% lên 8,7%; Bắc Âu từ 0,4%

lên 1,6%; Nam Âu từ 0,3% lên 0,7%; châu Mỹ từ chiếm 0,6% lên 1,9%;

châu Đại Dương, mà chủ yếu là Ôxtrâylia và Niu Dilân từ chiếm 0,3% lên

1,1% cũng trong giai đoạn này.

Giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996 - 2000, tỷ trọng khu vực thị trường

truyền thống Đông Âu tiếp tục thu hẹp và chỉ còn chiếm 2,4%, trong khi

khu vực Đông Á vẫn giữ vững là một khu vực thị trường xuất nhập khẩu

lớn nhất nước ta với tỷ trọng chiếm 43,8%; khu vực Đông Nam Á tuy có bị

giảm sút, nhưng vẫn là khu vực thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa lớn thứ

hai nước ta, với thị phần giai đoạn này là 23,5%. Ngoài hai khu vực thị

trường lớn nhất như trên, một số khu vực thị trường khác cũng được mở

rộng và phát triển với tốc độ khá nhanh như khu vực Tây Âu từ chiếm 8,7%

trong giai đoạn 1991 - 1995 đã lên 11,1% trong 5 năm từ 1996 - 2000; Bắc

Âu từ 1,6% lên 3%; Nam Âu từ 0,7% lên 1,7%; thị trường châu Mỹ từ 1,9%

lên chiếm 4,4%; châu Đại Dương từ 1,1% lên 3,8%.

10

Giai đoạn trước thềm Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ

150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 2001 - 2006, tỷ trọng kim

ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện sự phân chia lại

tỷ trọng thị trường, trong khi khu vực các thị trường lớn Đông Á, Đông

Nam Á và Tây Âu có dấu hiệu bị co lại thì thị phần thị trường khu vực

châu Mỹ mà chủ yếu là Bắc Mỹ và tỷ trọng thị trường châu Đại Dương đã

vươn ra chiếm lĩnh khá mạnh mẽ.

Bảng 1.1 TỶ TRỌNG MỨC LƯU CHUYỂN NGOẠI THƯƠNG THEO

CHÂU LỤC VÀ KHU VỰC THỊ TRƯỜNG QUA MỘT SỐ GIAI ĐOẠN

TRONG THỜI KỲ 1986 - 2006 (%)

Khu vực địa lý

Giai đoạn

1986 - 1990

Giai đoạn

1991 - 1995

Giai đoạn

1996 - 2000

Giai đoạn

2001 - 2006

Châu Á 20,9 71,5 71,3 65,1

- Đông Nam Á 7,4 27,3 24,9 21,2

- Đông Á 12,9 43,2 43,8 40,8

Châu Âu 65,3 16,5 18,2 16,5

- Đông Âu 58,0 5,4 2,4 2,5

-Tây Âu 6,6 8,7 11,1 8,9

Châu Mỹ 0,6 1,9 4,4 11,6

- Bắc Mỹ 0,1 1,4 3,8 10,3

Châu Đại Dương 0,3 1,1 3,8 4,9

- Ôxtrâylia và Niu Dilân 0,3 1,1 3,7 4,9

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

1.2 KẾT QUẢ XUẤT NHẬP KHẨU TĂNG TRƯỞNG CAO TRONG

THỜI KỲ MỞ CỬA TRƯỚC HỘI NHẬP WTO

1.2.1 Về tổng mức lưu chuyển ngoại thương sau mở cửa

Đường lối đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước ta đã đem lại

những kết quả kỳ diệu cho sự phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực xuất

nhập khẩu nói riêng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới mở cửa trước hội

nhập WTO (1986 - 2006). Tổng mức lưu chuyển ngoại thương đến năm

2006, năm trước thềm của thời kỳ hội nhập WTO đã đạt 84,7 tỷ USD gấp

gần 30 lần so với năm 1986 là năm bắt đầu có đường lối đổi mới mở cửa

11

và tốc độ tăng trưởng mức lưu chuyển ngoại thương bình quân mỗi năm

trong cả thời kỳ này đã đạt 1,5 lần/năm. Tổng mức lưu chuyển ngoại

thương từ bình quân 3,9 tỷ USD/năm trong giai đoạn 1986 - 1990 đã lên

gần 8 tỷ USD/năm giai đoạn 1991 - 1995, tăng hơn 2 lần so với giai đoạn

1986 - 1990. Nếu như tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1986 -

1990 mới chỉ đạt 15,1%/năm thì giai đoạn 1991 - 1995 đã lên bình quân

tăng 23,4%/năm. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương bình quân giai đoạn

1996 - 2000 đã lên 22,7 tỷ USD/năm, gấp gần 3 lần so với giai đoạn

1991 - 1995, gấp hơn 6 lần so với giai đoạn 1986 - 1990. Đây là những

con số kỳ diệu và các tốc độ tăng trưởng ngoạn mục về ngoại thương trong

20 năm đổi mới mở cửa trước hội nhập WTO của Việt Nam.

Có thể thấy tốc độ tăng trưởng tổng mức lưu chuyển ngoại thương

giai đoạn 1996 - 2000 của thời kỳ 20 năm mở cửa trước hội nhập WTO

lại chững lại, chỉ còn tăng 17,9%/năm, thấp hơn khá nhiều so với tốc độ

tăng của giai đoạn trước là có nguyên nhân khách quan do tác động khá

mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Á đã nổ ra ở đầu giai

đoạn này.

Tổng mức lưu chuyển ngoại thương giai đoạn trước thềm chính thức

hội nhập WTO 2001 - 2006 đã đạt 54,2 tỷ USD/năm, gấp 2,4 lần giai đoạn

1996 - 2000, gấp 6,8 lần giai đoạn 1991 - 1995 và gấp hơn 13,7 lần giai

đoạn 1986 - 1990. Tốc độ tăng trưởng bình quân năm giai đoạn 2001 -

2006 đạt 19,1%/năm, thấp hơn giai đoạn 1991 - 1995 nhưng đã cao hơn

các giai đoạn 1986 - 1990 và giai đoạn 1996 - 2000.

Như vậy chính giai đoạn 1991 - 1995 tưởng chừng sẽ là giai đoạn gặp

khó khăn nhất cho hoạt động xuất nhập khẩu nước ta (vì khi mới bắt đầu

bước vào đầu giai đoạn này toàn bộ thị trường truyền thống Đông Âu và

Liên Xô gần như đã bị mất hết) thì lại là giai đoạn có tốc độ tăng trưởng

cao nhất trong thời kỳ đổi mới, mở cửa trước hội nhập WTO của nước ta.

Phải chăng chính từ bước hụt hẫng và sốc mạnh năm 1991 đã thúc ép

chúng ta phải nhanh chóng đi tìm thị trường thay thế và từ đó một điều kỳ

diệu đã đến là chúng ta không những đã nhanh chóng tìm được thị trường

12

xuất nhập khẩu thay thế mà còn mở rộng và đạt tốc độ tăng trưởng ngoạn

mục nhất.

Hình 1.1

1.2.2 Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ mở cửa trước hội nhập WTO

Đến năm 2006 trước thềm chính thức hội nhập WTO, kim ngạch xuất

khẩu nước ta đã đạt gần 40 tỷ USD, gấp hơn 35 lần so với năm 1986, năm

mở đầu thời kỳ đổi mới mở cửa. Kim ngạch xuất khẩu các năm trong giai

đoạn cận kề hội nhập WTO (các năm từ 2001 – 2006) đạt khá cao, bình

quân 25,1 tỷ USD/năm, gấp hơn 2,4 lần so với giai đoạn 1996 - 2000, gấp

hơn 7,3 lần giai đoạn 1991 - 1995 và gấp gần 10,5 lần giai đoạn 1986 -

1990 là giai đoạn mở đầu thời kỳ đổi mới, mở cửa thực hiện theo đường

lối Đại hội VI của Đảng. Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch xuất

khẩu giai đoạn 2001 - 2006 đạt 18,7%/năm; giai đoạn 1996 - 2000 là

22,1%/năm; giai đoạn 1991 - 1995 là 19,3%/năm và giai đoạn 1986 - 1990

đạt 30,8%/năm. Sở dĩ tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn

1986 - 1990 đã nhảy vọt cao nhất là do năm 1989 kim ngạch xuất khẩu đã

tăng kỷ lục 87,5%. Sự nhảy vọt ngoạn mục kim ngạch xuất khẩu năm

1989 là do năm này nước ta bắt đầu có dầu thô xuất khẩu với khối lượng

lớn, hơn 1,5 triệu tấn tương ứng với kim ngạch gần 200 triệu USD. Năm

1989 cũng là năm đầu tiên Việt Nam có khối lượng gạo xuất khẩu lớn nhất

13

từ trước đó, đạt hơn 1,4 triệu tấn tương ứng với kim ngạch 290 triệu USD,

gấp hơn 15 lần so với khối lượng 91 nghìn tấn và hơn 10,7 lần so với kim

ngạch 27 triệu USD của năm 1988 trước đó. Ngoài ra, trong năm này các

mặt hàng thủy sản, may mặc, cà phê, cao su cũng có kim ngạch khá lớn và

tốc độ tăng trưởng khá cao so với năm 1988.

Hình 1.2

Kim ngạch xuất khẩu tính bình quân đầu người trong thời kỳ đổi mới

mở cửa trước hội nhập WTO 1986 - 2006 cũng tăng khá ngoạn mục, từ

12,9 USD/người trong năm mở đầu 1986 đã lên 473,2 USD/người trong

năm 2006 gấp 36 lần so với năm 1986. Trong đó tốc độ tăng trưởng xuất

khẩu bình quân đầu người giai đoạn 1986 - 1990 đạt 26,3%/năm, giai đoạn

1991 - 1995 đạt 17,1%/năm, giai đoạn 1996 - 2000 đạt 20,3%/năm và giai

đoạn cận kề hội nhập WTO đạt 17,1%/năm. Kết quả kỳ diệu đã đạt được

về xuất khẩu của nước ta trong thời kỳ đổi mới mở cửa trước hội nhập

WTO là nhờ đường lối đổi mới và phát triển kinh tế Đại hội VI của Đảng

đề ra đã nhanh chóng được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách kinh tế vĩ mô

và vi mô đã trực tiếp và gián tiếp khuyến khích cho xuất khẩu nước ta phát

triển. Nếu lấy năm 1989 làm gốc so sánh thì tốc độ tăng trưởng bình quân

từ năm 1990 đến năm 2000 của xuất khẩu đã cao gấp 2,6 lần tốc độ tăng

trưởng GDP. Và với kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tính đến

14

năm 2000 đã đạt 186,6 USD/người thì nước ta đã chính thức được đưa ra

khỏi danh sách các nước có nền ngoại thương kém phát triển.

1.2.2.1. Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo SITC thể hiện chất lượng

xuất khẩu được cải thiện

Cơ cấu xuất khẩu theo danh mục tiêu chuẩn ngoại thương trong 20

năm đổi mới mở cửa trước hội nhập WTO đã có một sự chuyển dịch

mạnh, từ thực trạng chủ yếu xuất khẩu hàng thô hay sơ chế đã sang tỷ

trọng xuất khẩu hàng chế biến hay tinh chế ngày càng cao. Điều này đã

chứng tỏ xuất khẩu của Việt Nam không những chỉ tăng trưởng cao về

khối lượng mà chất lượng hàng xuất khẩu cũng đã ngày càng được cải

thiện. Cụ thể từ tỷ trọng xuất khẩu hàng thô hay sơ chế giai đoạn 1986 -

1990 còn chiếm đến 70,2% và hàng chế biến hay tinh chế chỉ chiếm

28,9% thì đến giai đoạn 1996 - 2000 tỷ trọng hàng thô hay sơ chế đã

xuống chỉ còn 54,8% và hàng chế biến hay tinh chế đã lên 45,2% và đến

giai đoạn trước thềm hội nhập WTO 2001 - 2006 thì tỷ trọng xuất khẩu

hàng thô hay sơ chế đã xuống dưới 50%, chỉ còn 48,8% và xuất khẩu hàng

chế biến hay tinh chế đã lên 51,1% chính là minh chứng rõ nét về sự

chuyển biến về chất của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới, mở cửa trước thời kỳ hội nhập sâu rộng và toàn diện với thị trường

thế giới theo lộ trình WTO.

Hình 1.3 Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo SITC 1986 - 2006

15

1.2.2.2 Cơ cấu xuất khẩu theo phân tổ kế hoạch Nhà nước hàng

công nghiệp tăng mạnh

Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo danh mục kế hoạch Nhà

nước thời kỳ đổi mới, mở cửa trước hội nhập WTO 1986 - 2006 lại cho

chúng ta thấy bức tranh tăng trưởng về chất lượng của hàng hóa xuất khẩu

Việt Nam ở một khía cạnh khác, đó là tỷ trọng hàng công nghiệp đã liên

tục tăng lên và chiếm ngày càng lớn, còn tỷ trọng xuất khẩu hàng nông

lâm thủy sản ngày càng giảm rõ rệt. Cụ thể, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu

hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đã tăng từ tỷ lệ chiếm 8% trong

tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1986 đã lên 36,2% năm 2006. Tỷ trọng

kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp cũng

từ chiếm 28,8% năm 1986 đã lên chiếm 41,2% năm 2006. Như vậy là

trong cả thời kỳ đổi mới mở cửa trước hội nhập WTO, tỷ trọng kim ngạch

xuất khẩu hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đã tăng 4,5 lần, còn hàng

công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đã chiếm lĩnh thêm 11,9% trong

tổng kim ngạch xuất khẩu nước ta. Ngược lại, hàng nông sản và nông sản

chế biến, mặc dù kim ngạch xuất khẩu vẫn liên tục tăng với tốc độ khá

cao, năm 2006 đã gấp 16,8 lần so với năm 1986, nhưng tỷ trọng chiếm

trong tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn liên tục giảm, từ chiếm 40,4% trong

năm 1986 đã xuống chỉ còn 32,6% trong năm 1990, xuống còn 32% trong

năm 1995, tiếp tục thu hẹp nhanh và xuống chỉ còn 17,7% trong năm 2000

và xuống chỉ còn 13,4% trong năm 2006. Tính chung cả thời kỳ đổi mới

mở cửa trước hội nhập WTO 1986 - 2006 tỷ trọng xuất khẩu hàng nông

sản và nông sản chế biến đã bị thu hẹp đến 27% (40,4% - 13,4%). Tuy

nhiên, đáng chú ý nhất là tỷ trọng xuất khẩu hàng lâm sản đã giảm đi rất

nhanh trong thời kỳ này, cụ thể từ chiếm 9,1% trong năm 1986 đã xuống

chỉ còn 5,3% trong năm 1990, giảm xuống chỉ còn 1,1% trong năm 2000

và đến năm 2006 thì chỉ còn 0,7%, mặc dù kim ngạch xuất khẩu lâm sản

năm 2006 vẫn tăng gấp 4,2 lần so với năm 1986.

Thủy sản là một ngành xuất khẩu mũi nhọn trong những năm qua, tuy

nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản cũng ngày càng bị thu

hẹp, mặc dù tốc độ tăng trưởng ngành này trong nhiều năm của thời kỳ

này vẫn rất ngoạn mục. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2006 đã tăng

đến 31,7 lần so với năm 1986, trong đó bình quân hàng năm giai đoạn

1986 - 1990 đã tăng đến 27,2%/năm, giai đoạn 1991 - 1995 tăng

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!