Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NGỌC THẠCH
XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Lê Vĩnh Châu
Học viên: Nguyễn Ngọc Thạch
Lớp: Cao học Luật, Bình Thuận Khoá 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của
hộ gia đình trong thi hành án dân sự” là kết quả quá trình tự nghiên cứu của riêng
tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Thầy - TS. Lê Vĩnh Châu. Luận văn không
sao chép kết quả của bất kỳ luận văn nào trước đó.
Nội dung luận văn có tham khảo các tài liệu, thông tin, bản án theo danh mục
tài liệu tham khảo thể hiện trong luận văn. Số liệu trong luận văn đảm bảo trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi xin cam đoan và hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính chính xác luận văn
của mình.
Học viên
Nguyễn Ngọc Thạch
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT TỪ ĐƢỢC VIẾT TẮT
01 BLDS Bộ luật Dân sự năm 2015
02 BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
03 CHV Chấp hành viên
04 HĐXX Hội đồng xét xử
05 HGĐ Hộ gia đình
06 LĐĐ Luật Đất đai năm 2013
07 LĐG Luật Đấu giá năm 2016
08 Luật THADS năm 2014 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa
đổi, bổ sung năm 2014.
09 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP
Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17
tháng 3 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm
2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thi hành án dân sự, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 5 năm 2020
10 QSDĐ Quyền sử dụng đất
11
Thông tư Liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTCVKSNDTC
Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLTBTP-TANDTC-VKSNDTC ngày
1.8.2016 quy định một số vấn đề về thủ
tục thi hành án dân sự và phối hợp liên
ngành trong thi hành án dân sự
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. CĂN CỨ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............................. 7
1.1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật về xử lý tài sản
thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình...................................................... 7
1.2. Quyết định thi hành án, quyết định cƣỡng chế thi hành án về việc xử lý
tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình....................................... 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1............................................................................................... 22
CHƢƠNG 2. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ........................................................................................................................................ 23
2.1. Bảo quản tài sản bị kê biên là quyền sử dụng đất của hộ gia đình.......... 23
2.2. Định giá tài sản bị kê biên là quyền sử dụng đất của hộ gia đình............ 26
2.3. Bán đấu giá và giao tài sản đấu giá là quyền sử dụng đất của hộ gia đình
cho ngƣời trúng đấu giá ............................................................................................ 32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2............................................................................................... 39
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho các
loại hình doanh nghiệp hình thành, phát triển. Nhằm tạo nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp và cá nhân phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường nên thị trường tài
chính đã mở ra nhiều cơ chế cho vay thông thoáng hơn. Trong đó, hoạt động vay
vốn ngân hàng có thế chấp bằng tài sản đã và đang diễn ra ngày càng sôi động, trở
nên quan trọng, đóng vai trò là đòn bẩy cho sự phát triển của các doanh nghiệp, cá
nhân trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường. Theo đó, pháp
luật về thi hành án dân sự trong xử lý tài sản thế chấp tại ngân hàng đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực các phán quyết dân sự về tài sản của Tòa án.
Là tài sản có giá trị lớn, ổn định, nên quyền sử dụng đất là một trong các tài
sản được ngân hàng ưu tiên để đảm bảo cho hợp đồng vay bằng việc thế chấp. Thông
thường chỉ khi khách hàng không có tài sản là quyền sử dụng đất để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự thì ngân hàng mới áp dụng biện pháp xử lý các tài sản khác.
Tuy có vai trò quan trọng như vậy nhưng hiện nay tỷ lệ thi hành án liên quan
đến xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình tại các ngân hàng
đạt kết quả thấp. Nguyên nhân của tình trạng này là quy định của pháp luật về xử lý
tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự vẫn
còn bất cập, hạn chế. Cụ thể:
Thứ nhất, bất cập về phương thức bảo quản tài sản thi hành án là quyền sử
dụng đất của hộ gia đình;
Thứ hai, bất cập về định giá tài sản bị kê biên là quyền sử dụng đất của hộ gia
đình trong hoạt động xử lý tài sản thế chấp;
Thứ ba, bất cập về giao tài sản đấu giá cho người trúng đấu giá;
Thứ tư, bất cập về công tác phối hợp trong việc xử lý các tranh chấp liên
quan đến hợp đồng mua bán tài sản đấu giá là quyền sử dụng đất của hộ gia đình
trong quá trình thi hành án;
Thứ năm, bất cập về thứ tự xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ
gia đình trong hợp đồng thế chấp tài sản.
2
Từ các bất cập nêu trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, khoa học các
quy định của pháp luật về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để hoàn thiện
pháp luật và thực hiện hiệu quả về xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất trong
thi hành án dân sự là vấn đề có tính cấp thiết. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Xử lý
tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề cập về pháp luật THADS trong xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của hộ gia
đình trong THADS, các nhà nghiên cứu đã có những công trình liên quan như sau:
- Giáo trình, sách chuyên khảo
Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), “Giáo trình Luật THADS Việt Nam”,
Nxb Công an nhân dân. Xử lý tài sản, trong đó có QSDĐ được nhóm tác giả trình
bày trong phần về biện pháp cưỡng chế trong THADS. Trong phần nội dung này
các căn cứ, nguyên tắc cũng như trình tự, thủ tục xử lý được phân tích khá chi tiết.
Đây là tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả trong việc triển khai nghiên cứu lý
luận về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của hộ gia đình trong THADS. Tuy nhiên,
công trình biên soạn nhằm giảng dạy trong các cơ sở đào tạo Luật, vì vậy không
đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, không chỉ ra bất cập, vướng mắc và hướng
hoàn thiện. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa một số nội dung, quan điểm về mặt lý luận từ
công trình, tác giả cần phải triển khai việc nghiên cứu theo hướng đánh giá thực
tiễn, chỉ ra bất cập, vướng mắc và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Học viện tư pháp (2010), “Giáo trình kỹ năng THADS”, Nxb Tư pháp. Trong
công trình, các tác giả đã phân tích, minh hoạ khá chi tiết về các hoạt động kê biên,
xử lý tài sản, bao gồm QSDĐ, những phân tích này là nguồn tài liệu tham khảo cho
tác giả trong việc triển khai nghiên cứu về lý luận đối với đề tài của mình. Song đây
cũng là công trình biên soạn nhằm phục vụ cho việc giảng dạy, nên không đánh giá
thực tiễn, chỉ ra bất cập, vướng mắc cũng như đề xuất giải pháp hoàn thiện, vì vậy
bên cạnh kế thừa một số nội dung của công trình, tác giả sẽ làm rõ các vấn đề này.
Vũ Thị Hồng Yến (2017), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự
thật. Đây là công trình mang tính lý luận và chứa đựng những vấn đề về tài sản thế
chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Tuy
3
nhiên, là công trình có tính lý luận nên chưa phản ánh được thực tiễn về xử lý tài
sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong thi hành án dân sự.
- Luận văn, luận án
Ngô Minh Thuận (2013), “Pháp luật về xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để
thu hồi nợ thông qua thi hành án”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh. Trong công trình này, tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cơ bản về xử lý tài sản thế chấp, pháp luật xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để
thu hồi nợ thông qua thi hành án. Luận văn đã khái quát được các phương thức xử
lý tài sản thế chấp ngân hàng, quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam, pháp luật
của một số nước trên thế giới trong hoạt động xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để
thu hồi nợ thông qua thi hành án; phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về
xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ. Trên cơ sở đó đưa ra một số định
hướng có tính nguyên tắc, đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ thông qua thi
hành án. Tuy nhiên, luận văn chưa đề cập các phương thức xử lý tài sản khác để thi
hành án.
Nguyễn Văn Hiệp “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự Việt Nam”,
Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2003. Trong đề tài này, tác giả đã đánh giá toàn bộ
hệ thống pháp luật THADS hiện hành (pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và
các văn bản hướng dẫn thi hành). Tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS, cơ
quan quản lý THADS từ trung ương đến địa phương. Tác giả có làm sáng tỏ cơ sở
lý luận về THADS như đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, trình tự thủ tục THADS.
Trong trình tự thủ tục THADS, tác giả đã tóm tắt và đánh giá sơ bộ về các thủ tục
mà không đi sâu vào phân tích từng thủ tục cụ thể.
- Bài viết tạp chí
Lê Anh Tuấn (2013), “Một số vấn đề về cưỡng chế kê biên, bán đấu giá
quyền sử dụng đất để thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (số 9), tr. 44-52.
Tác giả đã nêu lên những khó khăn, phức tạp trong việc kê biên đối với g tài sản là
QSDĐ, qua đó đã phân tích những khó khăn, bất cập trong áp dụng pháp luật về
THADS cũng như pháp luật về dân sự, về đất đai để xác định chính xác QSDĐ nào
được kê biên, không được kê biên; khó khăn trong kê biên quyền thuê đất, quyền
cho thuê lại đất; vướng mắc trong kê biên nhà ở gắn liền với QSDĐ. Tác giả cũng
4
đã đưa ra một số kiến nghị định hướng chung để sửa đổi, bổ sung pháp luật và một
số lưu ý trong tác nghiệp.
Nguyễn Thị Nhàn và Trần Thị Lành (2016), “Quy định của pháp luật Việt
Nam về xử lý tài sản bảo đảm trong thi hành án dân sự và thực tiễn thi hành”, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 10, tr.47-52. Tác giả bài viết phân tích quy định của
pháp luật THADS về xử lý tài sản bảo đảm và thực tiễn tổ chức kê biên, xử lý tài
sản bảo đảm để thi hành án. Trong đó, tác giả khai thác những nguyên nhân mà
công tác THADS gặp khó khăn trong thực tiễn khi quy định của pháp luật về tín
dụng, ngân hàng chưa đồng bộ với pháp luật THADS.
Xét trong mối quan hệ với các nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài
luận văn thì các công trình khoa học nêu trên mới chỉ đề cập đến những vấn đề về
xử lý tài sản thế chấp của tất cả các loại tài sản hoặc chỉ tập trung vào việc xác lập,
đăng ký giao dịch thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ theo các
phương thức quy định trong pháp luật về giao dịch bảo đảm. Trên cơ sở những ý
tưởng gợi mở từ các công trình nêu trên, luận văn được xem như là một công trình
nghiên cứu độc lập và có tính hệ thống về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ
theo quy định của pháp luật THADS hiện hành.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về
xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS và thực tiễn thực hiện từ đó
tìm ra các giải pháp khắc phục, kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn phải hoàn thành các nhiệm vụ sau:
Một là, lý giải một cách hệ thống các quy định pháp luật về xử lý tài sản thế
chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS.
Hai là, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản thế
chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS qua các vụ việc thi hành án cụ thể, để từ đó
chỉ ra những nội dung, những vấn đề còn bất cập, thiếu sót, chưa phù hợp. Từ đó,
kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật.
5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích các căn cứ luật định, các căn cứ này được
vận dụng nhận định cụ thể trong các hồ sơ thi hành án có liên quan đến việc xử lý tài
sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS. Đồng thời, đưa ra các kiến nghị, giải
pháp nhằm làm rõ các căn cứ để áp dụng một cách thống nhất, hạn chế các vi phạm với
các nhận thức chủ quan khác nhau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu các quy định của Luật THADS và
các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của
HGĐ trong THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên nghiên cứu các quy định của pháp luật
Việt Nam về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS qua các báo
cáo sơ kết, tổng kết Công tác THADS trên địa bàn tỉnh Bình Thuận những năm
gần đây.
- Phạm vi thời gian: Các quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý tài sản thế
chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS từ khi ban hành Luật THADS năm 2008,
được sửa đổi bổ sung năm 2014 đến nay.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Trong công trình này, các phương pháp cụ thể được sử dụng như sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xử lý
tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS trọng tâm là Chương 1. Phương
pháp này cũng sử dụng trong chương 2 để phân tích về thực tiễn áp dụng pháp luật
về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS.
- Phương pháp phân tích luật viết được sử dụng để đánh giá thực trạng pháp
luật về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS, trên cơ sở đó, chỉ
ra những hạn chế, bất cập của luật nhằm làm cơ sở đề xuất hướng hoàn thiện pháp
luật trong Chương 2.
- Phương pháp bình luận án được sử dụng để nhận xét những hạn chế, thiếu
sót của Luật cũng như những vướng mắc, khó khăn trong việc thi hành án về xử lý
6
tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS nhằm làm cơ sở kiến nghị, đề
xuất trong Chương 2.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu pháp luật về xử lý tài sản
thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS trước đây và hiện nay nhằm chỉ ra sự
tiến bộ hoặc hạn chế của Luật trong Chương 1 và Chương 2.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đưa ra kết luận cũng như định
hướng đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản
thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Về mặt lý luận: Góp phần làm sáng tỏ lý luận về xử lý tài sản thế chấp là
QSDĐ của HGĐ trong THADS, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và áp dụng thống
nhất pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Về giá trị thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của công trình là tài liệu trong công
tác học tập Luật THADS nói chung, xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong
THADS nói riêng.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 2 chương như sau:
Chương 1. Căn cứ xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình
trong thi hành án dân sự.
Chương 2. Trình tự, thủ tục xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của
hộ gia đình trong thi hành án dân sự.
7
CHƢƠNG 1
CĂN CỨ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
CỦA HỘ GIA ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Điều 70 Luật THADS năm 2014 quy định về căn cứ để xử lý tài sản thế chấp
là QSDĐ của HGĐ trong THADS, bao gồm: Bản án, quyết định; Quyết định thi hành
án; Quyết định cưỡng chế thi hành án. Bản án, quyết định của Tòa án là một trong
những căn cứ bắt buộc, để thực hiện biện pháp xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của
HGĐ trong THADS. CHV dựa vào nội dung bản án, quyết định của Tòa án để ban
hành quyết định THA và áp dụng biện pháp cưỡng chế. Quyết định thi hành án là căn
cứ quan trọng và cần thiết trong hồ sơ thi hành án và là căn cứ để CHV lập hồ sơ thi
hành án, cũng như tổ chức xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS.
1.1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật về xử lý tài
sản thế chấp là quyền sử dụng đất của hộ gia đình
Tại các Điều 28, Điều 36 và Điều 179 Luật THADS năm 2014 quy định:
Tòa án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao bản án, quyết định đó cho
cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với bản
án, quyết định sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị,
Tòa án phải chuyển giao cho cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã kê
biên tài sản, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có liên
quan đến việc thi hành án thì khi chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan
THADS, Tòa án phải gửi kèm theo bản sao biên bản về việc kê biên, tạm giữ tài
sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu khác có liên quan và các trường hợp khác.
Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án khi có yêu cầu thi
hành án đối với những bản án, quyết định của Tòa án và tổ chức khác trừ quy định
tại Khoản 2 Điều 36 Luật này. Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về xử lý
tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ cũng thực hiện theo quy định trên.
Tòa án đã ra bản án, quyết định có văn bản giải thích những nội dung mà Bản
án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu
của đương sự hoặc của cơ quan THADS, trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn
trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
8
Qua thực tiễn thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về xử lý tài sản thế
chấp là QSDĐ của HGĐ trong THADS, tác giả nhận thấy còn tồn tại bất cập sau:
Thứ nhất, về xác định tư cách đương sự của HGĐ sử dụng đất trong THADS.
Theo Khoản 1 Điều 101 BLDS, HGĐ tham gia quan hệ dân sự thì các thành
viên của HGĐ là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy
quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy
quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự
thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Theo Khoản 29 Điều 3 LĐĐ, HGĐ sử dụng đất là những người có quan hệ
hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình, đang sống chung và có QSDĐ chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, công nhận QSDĐ; nhận chuyển QSDĐ.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật THADS năm 2014, đương sự bao gồm người
được thi hành án, người phải thi hành án. Đương sự trong thi hành án được xác định
theo bản án, quyết định của Toà án.
Với các quy định trên về HGĐ, HGĐ sử dụng đất, có sự không thống nhất
giữa BLDS và LĐĐ. Nếu căn cứ theo quy định của BLDS, HGĐ sử dụng đất không
phải là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và không phải là đương sự trong
THADS. Ngược lại, theo LĐĐ, HGĐ sử dụng đất lại là chủ thể của quan hệ pháp
luật đất đai và là đương sự trong THADS. Nếu căn cứ theo LHNGĐ, vợ chồng vừa
là HGĐ sử dụng đất (sự kiện kết hôn), đồng thời là chủ sử dụng đất nhưng không
phải là tổ chức.
Vậy trong trường hợp này, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án với
đương sự trong các vụ án về xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ của HGĐ là HGĐ sử
dụng đất hay là từng cá nhân là thành viên của hộ. Đây là quy định không nhất quán
trong luật. Sở dĩ đặt vấn đề đối với trường hợp này là vì liên quan đến việc ra quyết
định thi hành án và tổ chức việc thi hành, có sự khác nhau giữa cá nhân, cơ quan, tổ
chức là đương sự trong THADS.
Chẳng hạn: Điểm c Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, quy
định: “Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp
hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Đối với tài sản thuộc quyền sở
9
hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở
hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền
sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền
sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả
xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết. Với quy
định này, vợ chồng đồng thời là thành viên hộ gia đình về quyền sử dụng đất chung
của hộ gia đình”.
Ví dụ: Bản án 54a/2019/DS-PT ngày 12/04/2019 về "Yêu cầu tuyên bố hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu" của TAND tỉnh Đắk Lắk
1
.
Theo bản án, gia đình ông Y K Byă là hộ đồng bào dân tộc tại chỗ, ngày
04/01/2001 UBND tỉnh Đắk Lắk cấp CNQSDĐ số O 367121, tờ bản đồ số 25, thửa
đất số 116, diện tích 1.350m² thị trấn E, huyện E mang tên hộ ông Y K. Tại thời
điểm kê khai đăng ký cấp giấy CNQSDĐ không thể hiện có các thành viên trong
HGĐ. Năm 2005 ông Y K Byă, bà H’B Niê chuyển nhượng diện tích đất trên cho
vợ chồng ông Trần Văn G và bà Đặng Thị Minh T với giá 300.000.000 đồng, khi
bán đất có ghi “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư”, được buôn trưởng là ông Y D
Bkrông xác nhận. Sau khi chuyển nhượng, vợ chồng ông Y K Byă, bà H’B Niê đã
giao giấy CNQSDĐ và bàn giao thửa đất cho vợ chồng ông G, bà T quản lý, sử
dụng từ năm 2005. Ngày 25/4/2012, vợ chồng ông G, bà T vay vốn Ngân hàng Nchi nhánh huyện Ea S Đắk Lắk, do giấy CNQSDĐ vẫn đang đứng tên hộ ông Y K
Byă nên vợ chồng ông G nhờ vợ chồng ông Y K Byă ký hợp đồng thế chấp bằng tài
sản của bên thứ ba với Ngân hàng để bảo đảm cho khoản vay của ông G, bà T, tài
sản thế chấp là thửa đất số 116, tờ bản đồ số 25, diện tích 1350m2 nêu trên. Do
không trả được nợ, ngày 06/10/2016 Ngân hàng, ông G, bà T, vợ chồng ông Y K, bà
H’B và bà H’Y Niê đã thống nhất lập “Văn bản thỏa thuận về việc bán đấu giá tài
sản thế chấp”. Ngày 20/10/2016, Ngân hàng đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần
dịch vụ đấu giá T để bán tài sản thế chấp nêu trên, vợ chồng ông Trần Trọng N, bà
Phạm Thị H đã mua trúng tài sản đấu giá và đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký
QSDĐ huyện E đăng ký biến động sang tên ông N vào ngày 17/3/2017.
Các nguyên đơn là chị H’N Niê, anh Y B Niê, chị H’L Niê, chị H’N Niê, anh
Y Ơ Niê và chị H’Y Niê (con của ông Y K Byă và bà H’B Niê) đã khởi kiện đề nghị
1
https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-54a2019dspt-ngay-12042019-ve-yeu-cau-tuyen-bo-hop-dongthe-chap-quyen-su-dung-dat-vo-hieu-81785, truy cập lúc 20h ngày 2.6.2021.
10
Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba ngày 25/4/2012
được ký giữa Ngân hàng với ông Y K Byă và bà H’B Niê là vô hiệu vì đây là tài sản
chung của HGĐ, căn cứ vào giấy CNQSDĐ. Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
đều không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn.
Trong vụ án này, tác giả nhận thấy:
Một, về nguyên tắc khi QSDĐ ghi là HGĐ thì QSDĐ đó là của hộ, bao gồm
các thành viên của gia đình. Cho đến sau này, Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT,
ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Bộ Tài nguyên và môi trường về việc quy định chi
tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai mới bổ sung
nội dung này cụ thể hơn. Theo đó, điểm c Khoản 5 Điều 6 của Thông tư số
33/2017/TT-BTNMT mới xác định cụ thể hơn: Hộ gia đình sử dụng đất thì ghi “Hộ
gia đình, gồm ông” (hoặc “Hộ gia đình, gồm bà”), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên
và số giấy tờ nhân thân của chủ hộ gia đình; địa chỉ thường trú của hộ gia đình.
Trường hợp chủ hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì
ghi người đại diện là thành viên khác của hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất
của hộ gia đình. Dòng tiếp theo ghi “Cùng sử dụng đất, cùng sở hữu tài sản gắn
liền với đất (hoặc Cùng sử dụng đất hoặc Cùng sở hữu tài sản) với … (ghi lần lượt
họ tên, năm sinh, tên và số giấy tờ nhân thân của những thành viên còn lại trong hộ
gia đình có chung quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất).”
Hai, về quyền của thành viên HGĐ sử dụng đất. Điểm c, d, đ khoản 2 Điều
179 LĐĐ quy định: Hộ gia đình được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng
năm có quyền để thừa kế, tặng cho, cho thuê tài sản; thế chấp bằng tài sản thuộc sở
hữu của mình gắn liền với đất thuê tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam, tại tổ chức kinh tế khác hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật. Đối chiếu
quy định này với vụ án trên, điểm vướng mắc là quyền của người từ đủ 15 tuổi trở
lên đến dưới 18 tuổi. Theo Khoản 2 Điều 77 LHNGĐ, con từ đủ 15 tuổi đến dưới
18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản,
động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh
thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ. Như vậy dưới
góc độ dân sự nói chung, con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, họ có một số quyền
liên quan đến việc định đoạt tài sản như để lại di chúc chẳng hạn. Theo các quy định