Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xây dựng bộ câu hỏi và bài tập trắc nghiệm khách quan về cân bằng trong dung dịch chứa hợp chất ít
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
Hoá học phân tích là khoa học về các phương pháp xác định thành phần
định tính và định lượng của các chất và hỗn hợp của chúng; trong đó phân tích
định tính là một học phần khá quan trọng và thú vị đối với mỗi sinh viên thuộc
ngành hoá học; khi nghiên cứu thành phần của một chất thì phân tích định tính
luôn luôn đi trước phân tích định lượng bởi vì việc lựa chọn phương pháp xác
định thành phần định lượng tuỳ thuộc vào số liệu của phân tích định tính, đặc
biệt phản ứng tạo thành hợp chất ít tan đóng vai trò quan trọng trong hoá học
phân tích, nó thường được sử dụng để nhận biết, tách và định lượng các chất.
Mặt khác nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ của nền kinh tế tri
thức - thế kỷ của nền khoa học công nghệ cùng với yếu tố con người quyết định
sự phát triển của xã hội. Trong thời đại bùng nổ thông tin và phát triển khoa học
công nghệ như hiện nay thì kho tàng tri thức của nhân loại ngày càng đa dạng,
phong phú do đó đòi hỏi nền giáo dục phải đổi mới để có thể đáp ứng một cách
năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển kinh
tế-xã hội.
Trong xu thế đổi mới về nội dung, chương trình sách giáo khoa và phương
pháp dạy học ở nhà trường thì việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá cũng
rất quan trọng; kiểm tra đánh giá thường xuyên có hệ thống giúp xác định kết
quả dạy từ đó giúp người dạy hoàn thiện hơn về phương pháp giảng dạy, người
học tự kiểm tra lại mức độ lĩnh hội tri thức và có kế hoạch tự điều chỉnh việc học
theo chiều hướng tích cực, tự lực và có thái độ đúng đắn với việc học tập; nó sẽ
rèn luyện cho người học thói quen làm việc, biết hoàn thành công việc đúng thời
điểm; có trách nhiệm trong học tập.
Có nhiều biện pháp để kiểm tra đánh giá kết quả của người học trong quá
trình dạy học, trong đó phổ biến nhất là trắc nghiệm tự luận, trắc nghiệm khách
quan và vấn đáp. Tuỳ theo đặc điểm của từng bộ môn mà có thể khai thác và
phối hợp các phương pháp đánh giá sao cho có hiệu quả nhất vì mỗi phương
pháp đều có ưu điểm và hạn chế riêng của nó. Tuy nhiên phương pháp kiểm tra
1
Khóa luận tốt nghiệp
truyền thống còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của việc kiểm tra
đáng giá về sự tiếp thu tri thức, kỹ năng, trình độ phát triển tư duy của người học
một cách khoa học. Vì vậy việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan
trong dạy học đang trở thành xu thế phổ biến của nền giáo dục nước ta cũng như
các nước trên thế giới.
Hóa học là một bộ môn khoa học tự nhiên, đòi hỏi cao sự logic, nhạy bén
trong tư duy của người học. Do đó, bài tập trắc nghiệm vừa là nội dung, vừa là
phương pháp, vừa là phương tiện để nâng cao chất lượng dạy học hóa học ở nhà
trường một cách hữu hiệu. Đặc biệt, hiện nay phương pháp trắc nghiệm khách
quan được sử dụng một cách phổ biến, rộng rãi trong các kỳ thi lớn thì việc giải
nhanh các bài toán hóa học đối với người học là yêu cầu hàng đầu. Yêu cầu tìm ra
được phương pháp giải toán một cách nhanh nhất, bằng con đường ngắn nhất
không những giúp người học tiết kiệm được thời gian làm bài mà còn rèn luyện
được tư duy và năng lực phát hiện vấn đề của người học. Chính vì những lí do trên
nên tôi quyết định chọn đề tài “Xây dựng bộ câu hỏi và bài tập trắc nghiệm
khách quan về cân bằng trong dung dịch chứa hợp chất ít tan” với hy vọng đề
tài này sẽ trở thành một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập của các bạn
sinh viên sau này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô và các bạn.
2
Khóa luận tốt nghiệp
Chương 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ TRẮC NGHIỆM
1.1 Cơ sở lí luận về phưong pháp trắc nghiệm [14, 15]
1.1.1 Khái niệm
Trắc nghiệm được hiểu theo nghĩa rộng: là hoạt động được thực hiện để
đo lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định.
Trắc nghiệm được hiểu theo nghĩa hẹp: là loại dụng cụ đo lường khả năng
của người học.
Trắc nghiệm là hình thức đo đạc “tiêu chuẩn hoá” cho mỗi cá nhân người
học bằng “điểm”.
1.1.2 Vai trò của trắc nghiệm trong giảng dạy [2, 14, 15]
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thì việc nghiên cứu cải tiến phương
pháp giảng dạy (trong đó có phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
người học) là hết sức cần thiết.
Muốn cải tiến được hiệu quả, chúng ta phải cải tiến cả nội dung và
phương pháp dạy học. Trong đó cải tiến nội dung có ý nghĩa hàng đầu, đó chính
là sự lựa chọn bổ sung hoàn thiện và sắp xếp lại kiến thức. Kiểm tra đánh giá học
tập có tổ chức là một điều kiện không thể thiếu trong việc cải tiến học tập.
Phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập bằng trắc nghiệm rất đa
dạng và phong phú. Nếu phát huy đầy đủ những ưu điểm của phương pháp này
chúng ta sẽ có cơ hội nâng cao chất lượng học tập. Tuy nhiên cũng không nên
đánh giá cao hoặc xem nhẹ bất cứ phương pháp đánh giá nào mà phải sử dụng
đúng, có sự kết hợp hài hoà, nếu được như vậy nó sẽ là đòn bẩy nâng cao chất
lượng giáo dục.
Kiểm tra đánh giá thường xuyên, có hệ thống sẽ rèn luyện cho người học
thói quen làm việc, biết hoàn thành công việc đúng thời điểm, có trách nhiệm
trong học tập. Ngoài ra, việc kiểm tra đánh giá cho phép xác định được mục tiêu
giáo dục của bộ môn có thực tế hay không? Việc giảng dạy của chúng ta có
thành công hay không? Người học có tiến bộ hay không? Vì vậy, việc kiểm tra
đánh giá phải được xem như là bộ phận chủ yếu và hợp thành một thể thống nhất
3
Khóa luận tốt nghiệp
trong quá trình dạy học. Do đó việc kiểm tra đánh giá phải được đảm bảo tính
chính xác khách quan và kích thích người học.
Từ trước đến nay, ở các trường học nước ta thường sử dụng phương pháp
kiểm tra truyền thống: kiểm tra vấn đáp và kiểm tra viết. Tất cả các bài kiểm tra
đều theo một khuôn mẫu là người dạy đưa ra một số câu hỏi và người học trả lời
theo câu hỏi đó, các câu hỏi đều không có câu trả lời sẵn, người học phải tự suy
nghĩ và tìm câu trả lời phù hợp. Những bài kiểm tra theo phương pháp này đã
giúp người dạy đánh giá được trình độ nhận thức, sự phát triển tư duy, sự sáng
tạo của người học. Tuy nhiên chỉ đánh giá được một lượng kiến thức nhỏ hơn
nhiều so với lượng kiến thức đã được học. Mặt khác những bài kiểm tra theo lối
truyền thống thường thiếu tính khách quan, chưa lượng hóa được kết quả. Trong
khi yêu cầu của xã hội là ngày càng đòi hỏi chất lượng cao đối với công tác
giảng dạy đánh giá. Đặc biệt trong giai đoạn phát triển của khoa học kỹ thuật
hiện nay với sự gia tăng nhanh chóng của khối lượng thông tin khoa học thì
phương pháp kiểm tra truyền thống nêu trên chưa đáp ứng yêu cầu của việc kiểm
tra đánh giá về sự tiếp thu kiến thức, kỹ năng, trình độ phát triển tư duy của
người học một cách khoa học.
Có nhiều biện pháp để kiểm tra đánh giá kết quả của người học trong quá
trình dạy học, trong đó phổ biến nhất là TNTL, TNKQ và vấn đáp. Tùy theo đặc
điểm của từng bộ môn mà có thể khai thác và phối hợp các phương pháp kiểm
tra đánh giá sao cho có hiệu quả nhất bởi vì mỗi phương pháp đều có những ưu
điểm và hạn chế riêng của nó. Tuy nhiên sử dụng trắc nghiệm trong kiểm tra
đánh giá giúp cho người dạy đánh giá và phân loại người học, từ đó giúp họ
hoàn thiện hơn về phương pháp giảng dạy và người học tự kiểm tra lại mức độ
lĩnh hội tri thức và có kế hoạch tự điều chỉnh việc học tập theo chiều hướng tích
cực, tự lực và có thái độ đúng đắn đối với việc học tập.
1.1.3 Phân loại câu hỏi trắc nghiệm [14, 15]
Dựa vào hình thức làm bài trắc nghiệm người ta chia câu hỏi trắc nghiệm
làm 2 loại: TNKQ và TNTL (tự đưa ra câu trả lời) và dựa vào hình thức trả lời
mà có thể chia ra thành các loại nhỏ như sau:
4
Khóa luận tốt nghiệp
Hiện nay câu hỏi trắc nghiệm khách quan thì câu hỏi nhiều lựa chọn hay
được dùng nhất và nó thể hiện nhiều ưu điểm.
1.2 Cơ sở lý luận trắc nghiệm khách quan
1.2.1 Khái niệm [2, 14, 15]
TNKQ là một loại câu hỏi có kèm theo câu trả lời sẵn, loại câu hỏi này
cung cấp thông tin cần thiết và đòi hỏi người học phải chọn một câu trả lời đúng
nhất hoặc thêm một vài từ chính xác hay sắp xếp theo thứ tự nhất định các câu
trả lời.
Câu hỏi trắc nghiệm này được gọi là TNKQ bởi vì hệ thống cho điểm
hoàn toàn khách quan, không phụ thuộc vào người chấm. Tuy nhiên, phương
pháp này cũng không khỏi ảnh hưởng bởi tính chủ quan của người soạn câu hỏi.
Các
kiểu
câu
hỏi
trắc
nghiệm
Khách
quan
Tự
luận
Câu
hỏi
nhiều
lựa
chọn
Câu
hỏi
đúng
sai
Câu
hỏi
ghép
đôi
Câu
hỏi
điền
thêm
Câu
hỏi
điền
thêm
Đoạn
ngắn
Tiểu
luận
Bài
tập
hóa
học
Câu
hỏi
sắp
xếp
theo
thứ tự
5
Khóa luận tốt nghiệp
Trong TNKQ có nhiều câu trả lời được cung cấp cho một câu hỏi trắc nghiệm
nhưng chỉ có một câu trả lời đúng hay đúng nhất.
Người ta thường dùng từ “trắc nghiệm” nhằm chỉ “TNKQ”
1.2.2 Phân loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan [2, 15]
1.2.2.1 Câu hỏi nhiều lựa chọn
Đây là loại câu hỏi TNKQ thường được sử dụng nhất (thông dụng nhất).
Đối với loại câu hỏi này, người học được yêu cầu phải chọn câu trả lời đúng nhất
dựa vào một số khả năng trả lời định sẵn có sau câu hỏi, thường là 4 hoặc 5 khả
năng, trong đó có một câu trả lời đúng nhất và các câu trả lời nhiễu. Loại câu
nhiều lựa chọn bao gồm hai bộ phận:
- Câu dẫn: Đề của câu kiểm tra có thể viết dưới dạng một câu hỏi trực tiếp
hay một cách phát biểu không đầy đủ. Điều này có tác dụng gợi mở câu trả lời
đúng cho người được hỏi.
- Câu chọn: Gồm 4-5 khả năng trả lời, người học phải tìm ra câu trả lời
đúng trong số những câu này, số câu để lựa chọn không nên quá ít (2) hoặc quá
nhiều (trên 7) trong đó:
+ Câu trả lời đúng: là câu đúng nhất trong các câu lựa chọn.
+ Câu trả lời nhiễu: là câu trả lời có tính chính xác thấp hơn câu trả lời đúng.
Như vậy các câu nhiễu hoặc câu gài bẫy bề ngoài có thể đúng nhưng thực sự sai
hoặc chỉ đúng một phần và người học nắm chắc kiến thức mới phân biệt được.
Ưu điểm:
Người dạy có thể dùng loại câu hỏi này để kiểm tra đánh giá những mục
tiêu dạy học khác nhau.
Độ tin cậy cao hơn: Yếu tố đoán mò hay may rủi giảm đi nhiều so với các
loại TNKQ khác khi số phương án lựa chọn tăng lên.
Tính giá trị tốt hơn với bài trắc nghiệm có nhiều câu trả lời để lựa chọn,
người ta có thể đo được các khả năng nhớ, áp dụng các nguyên lý, định luật…,
tổng quát hóa…rất hữu hiệu.
Thực sự khách quan khi chấm bài. Điểm số của bài TNKQ không phụ
thuộc vào chữ viết, khả năng diễn đạt của người học và trình độ người chấm bài.
6
Khóa luận tốt nghiệp
Nếu người soạn có kinh nghiệm thì loại câu này có tác dụng kích thích suy
nghĩ, huy động toàn bộ các thao tác tư duy, phân tích, phán đoán suy luận của người
học.
Nhược điểm:
Loại câu hỏi này khó soạn vì phải tìm câu trả lời đúng nhất còn những câu
còn lại gọi là câu nhiễu thì cũng có vẻ hợp lý.
Có những người học có óc sáng tạo, tư duy tốt có thể tìm ra những câu trả
lời hay hơn đáp án thì người học đó cảm thấy không thỏa mãn.
Các câu hỏi TNKQ nói chung và câu hỏi nhiều lựa chọn nói riêng có thể
đo được khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo,
sáng tạo một cách hiệu nghiệm bằng loại TNTL soạn kỹ.
Một số lưu ý khi soạn loại câu hỏi này:
Phần gốc có thể là một câu hỏi hay là một câu bỏ lửng và phần lựa chọn là
phần bổ sung để cho phần gốc trở nên đúng nghĩa. Nội dung câu hỏi rõ ràng,
ngắn gọn, trong sáng.
Phần lựa chọn nên có từ 4 - 5 phương án, các phương án nhiễu phải có vẽ
hợp lý; phương án đúng và phương án nhiễu đều có sự hấp dẫn như nhau. Tất cả
phương án nhiễu đều dễ gây nhầm là phương án đúng đối với người học chưa
học bài kỹ và chưa hiểu kỹ, nhưng những phương án này không nhằm mục đích
gài bẫy mà nhằm để phân biệt giữa người học giỏi và người học kém. Phải chắc
chắn chỉ có một phương án đúng, các phương án còn lại thực sự nhiễu; tránh một
câu có cả hai phương án đúng. Không đưa vào hai câu chọn có cùng ý nghĩa.
Một câu hỏi chỉ xoay quanh một vấn đề duy nhất, tránh những câu hỏi vụn
vặt, tính toán dài dòng.
Mức độ tìm ra phương án đúng không được cao hơn mức độ tìm ra
phương án sai, nghĩa là các câu chọn đều phù hợp với trình độ học vấn được
kiểm tra.
Sự phân bố các phương án đúng, phải đựơc phân bố đều ở các vị trí A, B,
C, D, E…. sắp xếp theo thứ tự ngẫu nhiên.
1.2.2.2 Câu hỏi đúng - sai
Đây là loại câu hỏi được trình bày dưới dạng câu phát biểu và người học
trả lời bằng cách lựa chọn một trong hai phương án: đúng hoặc sai.
Ưu điểm:
Nó là loại câu hỏi đơn giản, thích hợp cho việc kiểm tra những kiến thức
7
Khóa luận tốt nghiệp
sự kiện, định nghĩa, khái niệm…
Có thể đặt được nhiều câu hỏi trong bài trắc nghiệm, có thời gian ấn định,
viết loại câu hỏi này tương đối dễ dàng ít phạm lỗi.
Nhược điểm:
Người học có thể đoán mò, may rủi (50%) như vậy độ tin cậy thấp, dễ tạo
điều kiện cho người học học thuộc lòng hơn là hiểu.
Khi soạn loại câu hỏi này thông thường người soạn thường trích nguyên
văn từ một tài liệu nào đó mà chưa xét đến tính chính xác của câu đó, và khi tách
ra khỏi văn bản nó không còn đúng.
Việc sử dụng những câu phát biểu sai mà được trình bày như là đúng có thể gây
ra hậu quả tiêu cực đối với người học, khiến cho họ tin và nhớ những phát biểu sai.
Một số lưu ý khi soạn câu hỏi loại đúng – sai:
Không nên trích nguyên văn những câu trích trong sách giáo khoa vì như
vậy sẽ khuyến khích người học học vẹt.
Lựa chọn những câu phát biểu mà một người học có khả năng trung bình
không thể nhận ra ngay là đúng hoặc sai.
Đúng hoặc sai không phụ thuộc vào quan niệm riêng của từng người
nhằm tránh những nhận định mập mờ.
Mỗi câu nhận định phải ngắn gọn, đơn giản tránh dùng các cụm từ: “tất
cả”, “không bao giờ”, “đôi khi”, “thỉnh thoảng”…tránh để người học đoán mò.
Một câu trắc nghiệm nên bao hàm một ý nghĩa duy nhất, tránh những ý
phức tạp bao gồm nhiều chi tiết, nội dung.
Phân bố câu trả lời đúng hoặc sai phù hợp.
1.2.2.3 Loại câu đối chiếu cặp đôi
Đây là một dạng đặc biệt của loại câu hỏi nhiều lựa chọn. Loại này gồm
hai dãy thông tin: dãy câu hỏi và dãy câu trả lời. Người học phải tìm ra từng cặp
câu trả lời phù hợp với câu hỏi tương ứng. Loại câu hỏi này thích hợp cho việc
kiểm tra một nhóm kiến thức gần gũi với nhau: chủ yếu là kiến thức sự kiện,
những thuật ngữ, định nghĩa, quy tắc…
Một số lưu ý khi soạn loại câu ghép đôi:
Dãy thông tin nêu ra không quá dài, nên cùng một loại kiến thức, có liên
quan với nhau để người học đỡ nhầm lẫn, đỡ phân tâm.
Số lượng thông tin ở hai dãy khác nhau để phương án cuối cùng người
8
Khóa luận tốt nghiệp
học cũng phải cân nhắc để lựa chọn.
Sắp xếp câu trả lời không nên theo thứ tự.
1.2.2.4 Câu điền khuyết (câu hỏi có câu trả lời bằng cách trả lời thêm)
Đây là nhận định được viết dưới dạng mệnh đề không đầy đủ hay một câu
hỏi đặt trước cho người kiểm tra, câu trả lời là một câu hay một từ hay một cụm từ.
Các câu hỏi loại này còn gọi là câu hỏi điền vào chỗ trống: câu trả lời là
loại câu chưa hoàn thành. Loại câu này có ưu thế là người học phải tìm câu trả
lời đúng hơn là nhận ra nó từ những câu trả lời đã có sẵn.
Mặc dù vậy nhưng câu trắc nghiệm điền khuyết: phạm vi kiểm tra thường chỉ
giới hạn vào chi tiết vụn vặt, việc chấm bài mất nhiều thời gian và thiếu khách quan.
Một số lưu ý khi soạn câu hỏi này:
Số lượng từ trong chỗ trống không nên quá dài hoặc quá ngắn; khi trừ chỗ
trống: phải trừ những đoạn bằng nhau (đúng với những đoạn dài nhất).
Có hai loại: tự tìm từ điền vào hoặc cho phương án để lựa chọn Thiếu
tính khách quan.
1.2.2.5 Câu hỏi có đáp án đòi hỏi sắp xếp theo thứ tự
Loại này có nhiều câu trả lời ở mức độ khác nhau. Người học phải xem
xét từng câu và đánh dấu hoặc sắp xếp lại các câu trả lời theo số thứ tự mức độ
hợp lý nhất đến mức độ hợp lý thấp hơn.
Loại câu hỏi này thích hợp cho việc kiểm tra về một vấn đề chính có liên
quan đến nhiều vấn đề khác, nó có thể là nguyên nhân hoặc kết quả của nhiều
yếu tố khác. Sự liên quan của các yếu tố khác đến vấn đề chính thường ở các
mức độ khác nhau nhưng không thể loại bỏ yếu tố nào.
Thực ra loại câu hỏi trắc nghiệm loại này không được sử dụng nhiều như các loại trên,
nguyên nhân là do việc soạn câu hỏi cầu kỳ mà câu trả lời nhiều khi mang tính chủ quan.
1.2.3 Ưu-nhược điểm của trắc nghiệm khách quan [2, 15]
1.2.3.1 Ưu điểm
Cho phép trong một thời gian ngắn kiểm tra được nhiều kiến thức cụ thể,
đi sâu vào nhiều khía cạnh khác nhau của kiến thức. Một câu hỏi trắc nghiệm
buộc người học phải lựa chọn câu trả lời đúng nhất trong những câu trả lời cho
9