Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Xác Đinh Dự Trữ Co 2 Hấp Thụ Của Các Trạng Thái Rừng Khộp Tại Tỉnh Đăk Lắk
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
LÊ THỊ TÚ
XÁC ĐỊNH TRỮ LƯỢNG CO2 HẤP THỤ CỦA CÁC TRẠNG
THÁI RỪNG KHỘP TẠI TỈNH ĐĂK LĂK
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Hà Nội, 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
LÊ THỊ TÚ
XÁC ĐỊNH TRỮ LƯỢNG CO2 HẤP THỤ CỦA CÁC TRẠNG
THÁI RỪNG KHỘP TẠI TỈNH ĐĂK LĂK
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. Võ Đại Hải
Hà Nội, 2011
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Biến đổi khí hậu hiện nay đã không còn chỉ là mối quan tâm của một quốc
gia, một tổ chức nào đó mà là của toàn thế giới. Nguyên nhân chủ yếu gây ra biến
đổi khí hậu và sự nóng lên của bầu không khí là do nồng độ khí nhà kính (chủ yếu
là C02) đang có xu hướng gia tăng rất nhanh. Chỉ hơn 100 năm qua, nồng độ CO2
trong khí quyển đã tăng từ 250 ppm lên tới 360 ppm vào năm 2000 (IPCC, 2001) và
385 ppm vào năm 2007 (Trevor, 2008). Ở giai đoạn hiện nay, nồng độ khí CO2 tăng
khoảng 10% trong chu kỳ 20 năm (UNFCCC, 2005). Theo dự báo của các chuyên
gia, nếu không có biện pháp hữu hiệu để giảm bớt khí thải nhà kính, thì nhiệt độ
mặt đất sẽ tăng lên 1,80
- 6,40 vào năm 2100, lượng mưa sẽ tăng lên 5 - 10%, băng ở
2 cực và các vùng núi cao sẽ tan nhiều hơn, mức nước biển sẽ dâng lên khoảng 70 -
100 cm và sẽ gây ra những hậu quả hậu quả sẽ rất nặng nề cho con người.
Sự ra đời của Nghị định thư Kyoto dựa trên Công ước khung của Liên hiệp
quốc về biến đổi khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate
Change) (UNFCCC - 1992) thể hiện sự quan tâm của toàn nhân loại về vấn đề biến
đổi khí hậu toàn cầu. Nghị định được đưa ra vào tháng 12 năm 1997 và có 160 quốc
gia đã thông qua, trong đó có Việt Nam đã thông qua, ký kết với 3 cơ chế quan
trọng là: Cơ chế Đồng thực hiện (JI), cơ chế Phát triển sạch (CDM) và cơ chế Mua
bán quyền phát thải (ET). Trong 3 cơ chế trên thì cơ chế phát triển sạch là cơ chế
mềm dẻo nhất và đem lại nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
Nghị định thư Kyoto sẽ hết hạn năm 2012 và thế giới dần chuyển sang thị trường
Carbon tự nguyện. Liên hiệp quốc đã thiết lập chương trình cắt giảm khí thải CO2
bằng cách hỗ trợ các nước nghèo bảo tồn rừng, sáng kiến này mang tên là REDD
(Reduced Emission from Deforestation and Forest Degradation in Developping
countries): ”Giảm việc phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính do mất rừng và suy
thoái rừng ở các quốc gia đang phát triển” tại hội nghị Copenhagen thiết lập sau
khi nghị định Kyoto hết hiệu lực. Đây là một công cụ vừa giúp giữ rừng vừa tạo
sinh kế cho người dân nghèo tại chỗ để khuyến khích họ bảo vệ rừng. REDD vận
hành như một cơ chế chính.
2
Từ việc thực hiện quyết định 380/QĐ-TTg về chính sách thí điểm chi trả
dịch vụ môi trường rừng (ngày 10/04/2008) và quyết định Số 158/QĐ-TTg về phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (ngày
02/12/2008) tới nay Chính phủ đã ban hành nghị định số 99/2010/NĐ-CP về chính
sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (ngày 24/9/2010), tạo ra cơ hội cải thiện cuộc
sống cũng như sinh kế rất tốt cho người dân tham gia vào công tác bảo vệ và phát
triển rừng. Vấn đề hiện nay của Việt Nam phải xác định được những giá trị dịch vụ
môi trường mà rừng mang lại bao gồm cả giá trị lưu giữ và hấp thụ carbon của rừng
làm cơ sở để triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Do đó, cần có
thêm những nghiên cứu đánh giá về khả năng hấp thụ CO2 của từng kiểu thảm
thực vật rừng nhằm đưa ra chính sách chi trả cho các chủ rừng và các cộng đồng
vùng cao trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
Rừng Khộp tại Đăk Lăk là hệ sinh thái đặc thù ở khu vực Tây Nguyên, một
khu vực rộng lớn mà diện tích rừng tự nhiên chiếm trên 20% tổng diện tích rừng
của cả nước. Tuy nhiên, cho tới nay ở khu vực Tây Nguyên nói riêng và ở Việt
Nam nói chung, các công trình nghiên cứu nhằm lượng hóa khả năng hấp thụ CO2
của rừng mới chủ yếu được thực hiện cho rừng trồng, đối với rừng tự nhiên còn ít
được quan tâm nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài “Xác định trữ lượng CO2 hấp thụ của các
trạng thái rừng Khộp tại tỉnh Đăk Lăk” đặt ra rất cấp thiết và có ý nghĩa.
3
Chương 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về sinh khối rừng
Sinh khối là tổng lượng chất hữu cơ có được trên một đơn vị diện tích tại
một thời điểm được tính bằng tấn/ha theo khối lượng khô (Ong, J.E & cs, 1984)
(dẫn theo Vũ Đoàn Thái, 2003) [19]. Sinh khối bao gồm tổng khối lượng thân,
cành, lá, hoa, quả, rễ trên mặt đất, dưới mặt đất. Việc nghiên cứu sinh khối cây
rừng là cơ sở đánh giá lượng carbon tích lũy của cây rừng, do vậy có ý nghĩa lớn
trong việc đánh giá chất lượng phục vụ cho quản lý và sử dụng tài nguyên rừng.
Ngay từ thế kỷ 17 trên thế giới đã có nghiên cứu về lĩnh vực sinh lý thực vật,
vai trò, cơ chế hoạt động của diệp thực vật màu xanh trong quá trình quang hợp để
tạo ra các sản phẩm hữu cơ dưới tác động của các yếu tố tự nhiên như đất, nước,
không khí và năng lượng mặt trời. Nhờ áp dụng các thành tựu khoa học như hoá
phân tích, hoá thực vật và đặc biệt là vận dụng nguyên lý tuần hoàn vật chất trong
thiên nhiên, các nhà khoa học đã thu được những thành tựu đáng kể trong thế kỷ
XIX . Một số nghiên cứu tiêu biểu có thể tóm tắt lại như sau:
- Xây dựng định luật "năng suất" dựa trên định luật “tối thiểu” của Liebig J.
và dựa trên các kết quả nghiên cứu về định lượng của sự tác động của thực vật tới
không khí, đã được mô tả bởi Liebig, J (1862) [33].
- Các công trình nghiên cứu về phát triển sinh khối rừng đã được tổng kết bởi
Riley G.A (1944) [37], Steemann Nielsen, E (1954) [39], Fleming, R.H. (1957)
[30].
- Bản đồ năng suất trên toàn thế giới đã được xây dựng bởi Lieth, H. (1964)
[34], đồng thời với sự ra đời của chương trình sinh học quốc tế “IBP” (1964) và
chương trình sinh quyển con người “MAB” (1971) đã tác động mạnh mẽ tới việc
nghiên cứu sinh khối. Những nghiên cứu trong giai đoạn này tập trung vào các đối
tượng đồng cỏ, savan, rừng rụng lá, rừng mưa thường xanh.
Theo Lê Hồng Phúc (1994), Duyiho công bố thực vật ở biển hàng năm
4
quang hợp đến 3x1010 tấn vật chất hữu cơ, trên mặt đất là 5,3x10
10 tấn. Đối với hệ
sinh thái rừng nhiệt đới năng suất chất khô thuần từ 10 - 50 tấn/ha/năm, trung bình
là 20 tấn/ha/năm, sinh khối chất khô từ 60 - 800 tấn/ha/năm, trung bình là 450
tấn/ha/năm. Năng suất sơ cấp của một số hệ sinh thái đã được đưa ra bởi Dajoz
(1971) như sau:
Năng suất mía ở châu Phi: 67 tấn/ha/năm.
Năng suất rừng nhiệt đới thứ sinh ở Yangambi: 20 tấn/ha/năm.
Savana cỏ Mỹ (Penisetum purpureum) châu Phi: 30 tấn/ha/năm.
Đồng cỏ tự nhiên ở Fustuca (Đức): 10,5 - 15,5 tấn/ha/năm.
Đồng cỏ tự nhiên Deschampia và Trifolium ở vùng ôn đới là 23,4
tấn/ha/năm.
Sinh khối của Savana cỏ cao Andrôpgon (cỏ Ghine): 5000 - 10000 kg/ha/năm. Rừng
thứ sinh 40 - 50 tuổi ở Ghana: 362.369 kg/ha/ năm (dẫn theo Dương Hữu Thời -
1992) [21].
Công trình “Sinh khối và năng suất sơ cấp rừng thế giới - World forest biomass
and primary production data” đã tập hợp 600 công trình đã được xuất bản về sinh khối
khô thân, cành, lá và một số thành phần, sản phẩm sơ cấp của hơn 1.200 lâm phần
thuộc 46 nước trên thế giới [43]. Rodel D. Lasco (2002) [38] công bố mặc dù rừng
chỉ che phủ 21% diện tích bề mặt trái đất, nhưng sinh khối thực vật của nó chiếm
đến 75% so với tổng sinh khối thực vật trên cạn và lượng tăng trưởng sinh khối
hàng năm chiếm 37%.
Phương pháp xác định sinh khối rất quan trọng quyết định đến độ chính xác
của kết quả nghiên cứu. Sau đây là một số phương pháp đã được các tác giả công
bố:
- Công trình: “Đánh giá sinh khối thông qua viễn thám” đã nêu tổng quát
vấn đề sản phẩm sinh khối và việc đánh giá sinh khối bằng ảnh vệ tinh, công bố bởi
P.S.Roy, K.G.Saxena và D.S.Kamat (Ấn Độ, 1956).
- Một số tác giả như Trasnean (1926), Huber (Đức, 1952), Monteith (Anh,
1960 - 1962), Lemon (Mỹ, 1960 - 1987), Inone (Nhật, 1965 - 1968),... đã dùng
5
phương pháp dioxit carbon để xác định sinh khối. Theo đó sinh khối được đánh giá
bằng cách xác định tốc độ đồng hoá CO2
Phương pháp “Chlorophyll” xác định sinh khối thông qua hàm lượng
Chlorophyll trên một đơn vị diện tích mặt đất. Đây là một chỉ tiêu biểu thị khả năng
của hệ sinh thái hấp thụ các tia bức xạ hoạt động quang tổng hợp được công bố bởi
Aruga và Maidi (1963).
- Whitaker, R.H (1961, 1966) [40] [41] Mark, P.L (1971) cho rằng "Số đo
năng suất chính là số đo về tăng trưởng, tích luỹ sinh khối ở cơ thể thực vật trong
quần xã".
- Woodwell, G.M (1965) và Whittaker, R.H (1968) [42] đã đề ra phương
pháp "thu hoạch" để nghiên cứu năng suất sơ cấp tuyệt đối.
- Newbuold.P.J (1967) đề nghị phương pháp “cây mẫu” để nghiên cứu sinh
khối và năng suất của quần xã từ các ô tiêu chuẩn. Phương pháp này được chương
trình quốc tế “IBP” thống nhất áp dụng.
- Phương pháp xác định sinh khối rừng dựa vào mối liên hệ giữa sinh khối và
kích thước cây hoặc của từng bộ phận cây theo dạng hàm toán học nào đó được sử
dụng phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu (Whittaker, 1966) [41]; Tritton và Hornbeck,
1982; Smith và Brand, 1983). Theo Grier và cộng sự (1989), Reichel (1991), Burton
V. Barner và cộng sự (1998) [27] do khó khăn trong việc thu thập rễ cây nên
phương pháp này chủ yếu dùng để xác định sinh khối của bộ phận trên mặt đất.
- Phương pháp Oxygen năm 1968 nhằm định lượng oxy tạo ra trong quá
trình quang hợp của thực vật màu xanh. Từ đó tính ra được năng suất và sinh khối
rừng đã được Edmonton. Et. Al đề xướng.
- Phương pháp lấy mẫu rễ để xác định sinh khối được mô tả bởi Shurrman và
Geodewaaen (1971), Moore (1973), Gadow và Hui (1999), Oliveira và cộng sự
(2000), Voronoi (2001), McKenzie và cộng sự (2001) [35].
- Theo Catchpole và Wheeler (1992) bộ phận cây bụi và những cây tầng dưới
của tán rừng đóng góp một phần quan trọng trong tổng sinh khối rừng. Có nhiều
phương pháp để ước tính sinh khối cho bộ phận này, các phương pháp bao gồm:
6
(1)- Lấy mẫu toàn bộ cây (quadrats); (2)- phương pháp kẻ theo đường; (3)- phương
pháp mục trắc; (4)- phương pháp lấy mẫu kép sử dụng tương quan.
Năm 2002, tổ chức “Australian Greenhouse Office” [26] đã soạn thảo sổ tay
hướng dẫn đo đạc ngoài thực địa cho việc đánh giá carbon rừng bao gồm cả rừng
trồng và rừng tự nhiên. Ngoài ra, Kurniatun và cộng sự (2001) [32] cũng đã xây
dựng một hệ thống các phương pháp cho việc thu thập số liệu về sinh khối trên và
dưới mặt đất rừng nhằm phục vụ công tác nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của
rừng.
1.1.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO2 của rừng
Trong chu trình carbon toàn cầu, lượng carbon lưu trữ trong thực vật thân gỗ và
trong lòng đất khoảng 2,5 Tt
(bao gồm trong đất, sinh khối tươi và vật rơi rụng), khí
quyển chỉ chứa 0,8 Tt. Dòng carbon trao đổi do sự hô hấp và quang hợp của thực vật là
0,61 Tt và dòng trao đổi giữa không khí và đại dương là 0,92 Tt.
Theo chu trình C, trong tổng số 5,5 Gt
- 6,6 Gt lượng carbon thải ra từ các
hoạt động của con người, có khoảng 0,7 Gt được hấp thụ bởi các hệ sinh thái bên trên
bề mặt trái đất, và hầu hết lượng carbon trên trái đất được tích lũy trong đại dương và
các hệ sinh thái rừng, đặc biệt là rừng mưa nhiệt đới. Một số năm gần đây các nhà
khoa học và chuyên gia kinh tế trên thế giới đã quan tâm đến việc tích tụ carbon
trong rừng để làm giảm bớt khả năng tích tụ khí gây hiệu ứng nhà kính trong bầu
khí quyển (Adams et al., 1993 ; Adams et al., 1999; IPCC, 1996, 2000) [31].
Tổng lượng carbon dự trữ của rừng trên toàn thế giới khoảng 826 tỷ tấn chủ yếu ở
cây và trong lòng đất (Brown, 1998), con người hoàn toàn có thể chuyển dịch các carbon
từ khí quyển thông qua một số bước nhằm tăng các bể chứa carbon này. Các bước này
có thể bao gồm tăng khối lượng carbon dự trữ cho một ha thông qua quản lý mật độ hoặc
tuổi rừng (Hoen and Solberg, 1994; Van Kooten et al., 1995; and Murray, 2000) hoặc
tăng diện tích rừng (Stavins, 1999; Plantinga et al; 1999) bằng phương pháp này đã đưa
* 1 terra ton (Tt) = 1012tấn = 1018g
1 giga ton (Gt)= 109
tấn=1015g