Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Việt Nam văn hóa sử cương
PREMIUM
Số trang
351
Kích thước
17.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1923

Tài liệu đang bị lỗi

File tài liệu này hiện đang bị hỏng, chúng tôi đang cố gắng khắc phục.

Việt Nam văn hóa sử cương

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VIỆT NAM

VAN HOA

SỨ CƯƠNG

vh

wẩ\\

■[«

1

VIỆT NAM VẢN HÓA s ử CƯƠNG

ĐÀO DUY ANH

VIỆT NAM VĂN HÓA

SỬ CƯƠNG

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC

LỜI TỰA

Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không một mẫu

đất nào là không có dấu vết công trinh thảm đạm kinh

dinh của tổ tiên ta đ ể giành lại quyền sống với tạo vật:

suốt một giải Trung Việt vào đến trung châu N am Việt,

không một khúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp

gian nan tiến thủ của tổ tiên ta đ ể mở rộng hy vọng cho

tương lai. Cái văn hóa của tổ tiên ta đã gây dựng trong

hai nghìn năm đ ể sinh trưởng giữa những điều kiện tự

nhiên ác liệt ở xứ này, tất phải có sinh kh í mạnh mẽ

lắm. Song cái văn hóa thích hỢp cho sự sinh trưởng của

một xã hội b ế tỏa, đến khi xã hội ấy gặp tinh th ế bắt

phải khai thông, th ì nó lộ ngay ra hết mọi nhược điểm.

Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của

những giá trị cổ truyền của văn hóa củ ấy với những

điều mới lạ của văn hóa Tây phương. Cuộc xung đột sẽ

giải quyết th ế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến cuộc

sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy. N hưng muốn giải

quyết thi phải nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy, tức

một mặt phải xét lại cho biết nội dung của văn hóa xưa

là th ế nào, một m ặt phải nghiên cứu cho biết chân giá

trị của văn hóa mới.

Quyển sách bỉ nhân soạn đây chỉ cốt cống hiến một

mớ tài liệu cho những người quan tâm về điều thứ nhất,

là muốn ôn lại cái vốn văn hóa của nước nhà, chứ không

có hy vọng g i h(M nữa.

Theo giới thuyết của Félix Sartiaur thi "văn hóa, về

phương diện động, là cuộc phát triển tiến bộ mà không

ngừng của những tác dụng xã hội về kỹ thuật, kinh tế,

tư tường, nghệ thuật, xã hội tổ chức, những tác dụng ấy

tuy liên lạc mà vẫn riêng nhau, về phương diện tĩnh thi

văn hóa là trạng thái tiến bộ của những tác dụng ấy ở

một th ế giới nhất định, và tất cả các tính chất mà những

tác dụng ấy bày ra ở các xã hội loài người".

Bỉ nhân biên sách này, củng dựa theo giới thuyết của

Félix Sartiaux mà chia đại khái ra ba bộ phận như sau

này:

1 - Kết quả sinh hoạt.

2 - Xã hội sinh hoạt.

3 - Trí thức sinh hoạt.

Đối với mỗi vấn đề bao hàm trong ba bộ phận ấy, bỉ

nhân gắng biên chép rõ ràng con đường diên cách xưa

nay cho đến trạng thái hiện tại, thản hoặc có chỗ sơ lậu

là bởi tài liệu còn thiếu, chưa có thê tim ra.

Sách này viết ra là nhăn chương trình học vụ mới có

thêm món Việt N am văn hóa ở ban Cao-đắng tiểu học.

Tuy bỉ nhân không theo cách phân phối của chương

trình nhà nước, vì không cốt soạn thành một bộ sách

giáo khoa, song tất cả những vấn đề ồ trong chương

trinh đều có nghiên cứu ở trong sách này, cho nên tuy

sách có tính chất phô thông mà các học sinh và giáo viên

củng có thể dùng làm sách tham khảo.

Mục đích bỉ nhăn củng không phải là soạn một bộ

tổng hỢp văn hoá sử, mà chỉ cốt thu thập những tài liệu

hiện có, sắp đặt lại thành hệ thống, đ ể giúp cho những

nhà nghiên cứu văn hoá sử đỡ công tim kiếm mà thôi.

Củng vi lẽ ấy nên ở sau mỗi thiên, bỉ nhân thêm một

mục sách tham khảo tường tế.

Bỉ nhân tự biết m inh có thiển lậu, mà trong sách này

còn nhiều chỗ thiếu sót hoặc sai lầm, nên rất hy vọng

các bậc thức giả tiền tiến trong nước sẽ vui lòng chỉ

chính cho. Đến như lời văn thi nhiều chỗ sống sượng cục

xúc, không được có vẻ thuần nhã đê gợi hứng thú cho

độc giả; nhưng nếu độc giả chỉ xem sách này là một mớ

tài liệu đê tham khảo thi hắn sẽ sẵn lòng lượng thứ cho.

Huế, ngày 14 VIII 1938

TÁC GIẢ CHÍ

THIÊN THỨ NHẤT

T ự LUẬN

I - VĂN HÓA LÀ GÌ?

Người ta thường cho rằng văn hóa là chỉ những học

th u ật tư tưởng của loài người, nhân thê mà xem văn

hóa vốn có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không

phải như vậy. Học th u ật tư tưởng cô' nhiên là ở trong

phạm vi của văn hóa nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh

tế, vê chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục

tập quán tầm thường lại không phải là ở trong phạm vi

văn hóa hay sao? Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ

chung tấ t cả các phương diện sinh hoạt của loài người

cho nên ta có thể nói rằng: Văn hóa tức là sinh hoạt.

Văn hóa đã tức là sinh hoạt thì không kể là dân tộc

văn minh hay dã m an đều có văn hóa riêng của mình,

chỉ khác nhau về trìn h độ cao thấp mà thôi. Ví dụ văn

hóa của các dân tộc Au Mỹ thì cao, mà văn hóa của các

dân tộc mọi rỢ ở Phi châu, ú c châu cùng các giống người

Mường, Mán Mọi ở nước ta thì thấp.

Vì lẽ gì văn hóa của các dân tộc lại khác nhau như

thế? Vì rằng cách sinh hoạt của các dân tộc không giống

nhau. Chính vì những điều kiện tự nhiên về địa lý

khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở kinh tế khác

nhau, cho nên cách sinh hoạt cũng thành khác nhau

vậy. Bởi thê muốn nghiên cứu văn hóa của một dân tộc,

trước hết phải xét xem dân tộc ấy sinh trưởng ở trong

những điều kiện địa lý thê nào.

Các điều kiện địa lý có ảnh hưởng lớn đốì vói cách

sinh hoạt của người ta, song người là giống hoạt động

cho nên trở lại cũng có thể dùng sức mình mà xử trí và

biến chuyển những điều kiện ấy cho thích vói những

điều cần thiết của mình. Cách sinh hoạt vì thê mà cũng

biến chuyển và khiến văn hóa cũng biến chuyển theo.

Nghiên cứu xem sự hoạt động để sinh hoạt về các

phương diện của một dân tộc xưa nay biến chuyển thê

nào, tức là nghiên cứu văn hóa sử của dân tộc ấy vậy.

II. - ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ xứ ẤN ĐỘ CHI-NA<'>

Vì địa th ế ở giữa nưóc Ấn Độ và nước Chi Na (Trung

Hoa) nên người ta gọi là Ân Độ Chi Na. về phương diện

văn hóa, tên ấy lại càng thích đáng bởi vì giải đất An Độ

Chi Na lại là nơi gặp nhau của hai ván hóa cổ nhất ở Á

châu: Ân Độ và Trung Hoa. Song hai văn hóa ấy truyền

bá ở hai khu vực khác nhau có giới hạn thiên nhiên chia

cách, tuy thỉnh thoảng có tiếp xúc nhau mà không khi

nào dung hòa. Xem thê ta đủ thấy rõ ảnh hưởng của địa

Tên "Ấn E)ộ Chi Na" là một danh từ địa lý chứ không phải tên dân tộc

hay quốc gia. Nó chỉ cả doi đất ở phía đông nam Á Châu.

10

lý hay là những điều kiện thiên nhiên đốì với văn hóa

vậy.

Điều kiện thiên nhiên đốỉ với sự sinh hoạt của loài

người vốn có ảnh hưởng quyết định, vì sinh hoạt chẳng

qua là dùng sức thể chất và tinh thần mà thích dụng

hay lợi dụng tự nhiên để mưu sự sống còn. Thế thì cách

sinh hoạt của người, tức là văn hóa, có quan hệ rấ t m ật

thiết với điều kiện tự nhiên, cho nên nghiên cứu văn

hóa của một dân tộc, ta phải nghiên cứu hoàn cảnh tự

nhiên của dân tộc ấy trước.

a) Địa thế. - Ân Độ Chi Na là một bán đảo ở giữa biển

Trung Hoa và vịnh Băng Gan, cấu thành bởi mấy giải

núi tự Tây Tạng chạy về miền đông nam đến biển, xòe

ra như hình rải quạt; ở giữa các giải núi ấy là những

thung lũng đầu thì hẹp rồi dần dần tỏa ra thành cao

nguyên và bình nguyên. Những sông lớn như sông Nam

(Ménam) sông Khung (Mékong) và sông Nhị (Pleuve

rouge), phát nguyên tự Tây Tạng chạy theo các thung

lũng ấy rồi bồi thành một giải trung châu ở doc bò biển

từ bắc đến nam. Đó là đại khái địa thê của Ân Độ Chi

Na.

Xứ Ấn Độ Chi Na thuộc Pháp, tức xứ Đông Pháp,

gồm những núi và sông ở về phía đông. Giải núi thứ

nhất theo phía tây Cao M an đến vịnh Xiêm La thành

những núi Cardamones và Elépphant, có đỉnh cao hơn

1.000 mét. Giải thứ hai gồm các chòm núi ở Thượng Ai

Lao và Thượng Bắc Việt chia ra thàn 1 giải Trường Sơn

chạy dọc từ bắc xuổng nam, có đỉnh cao hơn 2.000 mét.

Những núi và gò ở miền Trung Bắc Việt thì thuộc về

sơn hệ Quảng Tây và Vân Nam.

11

Các miền núi ấy choán hết một phần lớn cõi Đông

Pháp. Miền bình nguyên và trung châu hẹp hơn, chia ra

nhiều khu ở phần giữa xứ Cao Man, suốt cả xứ Nam

Việt, dọc bò biển Trung Việt nhất là về phía bắc, và

miền Hạ Bắc Việt chỉ cao hơn m ặt biển chừng một vài

mét thôi. Các miền ấy tuy hẹp nhưng lại là những nơi

dân cư trù mật, nhò dễ cày cấy và dễ dùng thủy lợi, cho

nên cũng là những nơi xã hội cường thịnh, văn hóa phát

đạt hơn hết, Nam Việt và Bắc Việt là trung châu của

hai con sông lớn, sông Khung và sông Nhị, là hai cánh

đồng lúa mênh mông, thực xứng vói câu tục ngữ "nhất

cống lưỡng cơ?*'\

Nếu ta xét toàn thể địa thê xứ Đông Pháp thì ta thấy

có hai phần cách biệt hẳn nhau, ở giữa là những núi

non ở phía bắc và giải Trường Sơn, một bên là Ai Lao,

một bên là Bắc Việt và Trung Việt. Hai phần ấy xưa

nay vẫn ít nhịp tiếp xúc nhau cho nên văn hóa của mỗi

bên phát triển theo một phương hưóng riêng, ở phía tây

thì chịu ảnh hưởng của Ẩn Độ, ở phía đông thì chịu ảnh

hưởng của Trung Hoa. Tại miền nam, xứ Nam Việt và

xứ Cao Man, nguyên xưa là một khu, sau vì sự tình lịch

sử mà thành chia rẽ, một phần thì người Việt Nam ở

bắc đến chiếm cứ, theo văn hóa Trung Quốc, một phần

thì n^ười Cao Man còn giữ được mà sinh tồn theo văn

hóa An Độ.

Nếu xét riêng địa thê về khu vực của dân tộc Việt

Nam ta lại thấy từ bắc vào nam, có nhiều khu cách

nhau vì những dăng núi ngang từ giải Trường Sơn chạy

Một đòn gánh gánh hai thúng (lúa).

12

ra biển. Tự khu này đi sang khu khác phải trèo đèo lội

suối, không có mốỉ liên lạc vĩnh viễn, cho nên sự sinh

hoạt địa phương thường làm trỏ ngại cho sự sinh hoạt

quôc gia. Ngày nay có đường thiên lý và đường xe lửa

Xuyên Đông Pháp thì sự giao thông đã được dễ dàng,

Bắc, Nam, Trung đã liên lạc thành một giải.

b) Khí hậu - Cõi Đông Pháp ở về khu khí hậu mà nhà

địa lý học thường gọi là khu gió mùa (zone des

moussons) tự Ân Độ đến N hật Bản. Khí hậu miền ấy do

hai yếu tô" đại lục và đại dương tiếp xúc nhau mà thành.

Mùa đông khí áp ở phía bắc đại lục Á châu, mạnh hơn

khí áp ở Ân Độ dương và phía nam Thái Bình Dương

nên gió khô ở đất thổi ra biển. Mùa hạ khí áp ở biển

m ạnh hơn ở đất, nên gió ẩm thổi từ miền đại dương vào

miền đại lục, rồi vì bị các núi cao ngăn cản mà kết lại

thành mưa. Bởi th ế khí hậu xứ Đông Pháp, cũng như

tấ t cả các xứ ở trong khu gió mùa, có hai mùa rất phân

biệt là mùa mưa và mùa nắng.

Trạng thái khí hậu như th ế có ảnh hưởng m ật thiết

vói tính chất thảo mộc và sự lao động của người. Cư dân

những miền đồng bằng thấy chỉ trồng lúa là thứ cốc loại

rấ t cần nước và nắng. Họ thường cày cấy vào mùa mưa,

ở những nơi ruộng một mùa thì cày cấy vào tháng

janvier, íévrier (Nam Việt, Cao Man) hay tháng

novembre (Ai Lao) là lúc nước lớn vừa qua, còn ở những

nơi ruộng hai mùa thì mùa chính là mùa tháng mười (Bắc

Việt và phía bắc Trung Việt), hay là mùa tháng ba (phía

giữa Trung Việt). Đòi xưa những rừng rậm vùng lầy lan

man hầu khắp cả xứ. Hiện nay các miền thượng du cũng

vẫn là vùng rừng nhiệt đới rất sầm u ất phồn thịnh.

13

Những rừng rú ấy ngăn cản sự di cư của dân hạ bạn

nhiều hơn các núi cao, cho nên từ xưa người Việt Nam

chỉ bành trướng từ bắc xuốhg nam, chớ không hề di

thực từ đông sang tây.

Trạng thái sông ngòi xứ Đông Pháp có quan hệ mật

thiết vớ' sự luân chuyển mùa nắng mùa mưa. Mùa

nắng thì ruộng khô sông cạn, mà hễ đến mùa mưa thì

nước sông dâng lên thành lụt, theo tiết độ rất đều. Có

nơi thì nước lụt làm lợi nhiều, như miền Biển Hồ ở Cao

Man và miền trung châu Nam Việt (sông Khung) nhò

lụt mà ruộng đất thêm màu và có nước để cày cấy; cũng

có nơi thì nưốc lụt là môi họa hại tàn khốc như ở trung

châu Bắc Việt (sông Nhị), khiến người ta hễ đến mùa

lụt thì lo sỢ và phải hết sức giữ đê.

ơ trong các tính chất chung của khí hậu ấy, ta lại còn

có thể phân biệt những tính chất riêng do vỹ độ và

phương vị của bờ biển và núi non sinh ra. Cõi Đông

Pháp bề dọc dài 1.500 ki lô mét, từ 8°31 đến 23°23 bắc

vỹ độ, cho nên ở Bắc Việt thì trong mỗi mùa ôn độ đã

khác nhau nhiều, mà ở gần đường xích đạo thì hầu như

nóng suốt cả năm. vả lại ở miền bắc, mùa mưa và mùa

nắng không phân biệt rõ rệt bằng ở miền nam, vì Bắc

Việt và bắc bộ Trung Việt ở bao quanh một cái vịnh nhỏ

nên gió mùa biến tính khiến ở đó cuối mùa đông thì có

nhiều sương mù và mưa phùn.

Sau hết, vì giải Trường Sơn là một bức thành cao chia

dọc cõi Đông Pháp thành hai khu vực, cho nên ở Trung

Việt từ tháng octobre đến tháng janvier vẫn còn mùa

mưa, mà ở Ai Lao, Cao Man và Nam Việt thì đã là mùa

nắng rồi.

14

III. - cư DÂN

Nếu so sánh địa th ế cõi Đông Pháp và trạng thái cư

dân thì ta thấy thượng du và hạ bạn có vẻ tương phản

rõ rệt. 0 miền thượng du thì nhân chủng phức tạp mà

rải rác, trình độ văn hóa chất phác đơn giản, còn ở hạ

bạn thì cư dân trù m ật, chủng loại đơn thuần và văn

hóa tiến bộ hơn.

Vấn đê gốc tịch của các nhân chủng ở Đông Pháp vẫn

còn mò tốĩ. Cứ kết quả của các công trình khảo cổ gần

đây thì thấy rằng: từ đòi thượng cổ cư dân ở đây đã

phức tạp lắm rồi, nhưng đại khái thì tương tự những

chủng loại hiện ở Nam Dương quần đảo và Đại Dương

châu. Người ta đoán rằng có lẽ lớp người Mê La Nê

Điêng là giốhg xưa hơn cả, rồi đến lớp người Anh Đô Nê

Điêng, rồi vê sau nữa mối đến giống Mông cổ dần dần

tràn vào. ơ đầu tây kỷ nguyên trên cái nền tảng nhân

chủng phức tạp ấy đã có mấy văn hóa lón phát triển ỏ

miền trung châu Bắc Việt và bắc bộ Trung Việt. Buổi ấy

dân tộc Việt Nam đang dần dần đem văn hóa Trung

Hoa mà tiến vào phương nam. Đồng thòi có một giống

người phương tây cũng đem văn hóa Ân Độ đến các

đồng bằng ở miền hạ lưu sông Khung và miền bò biển

Trung Việt ngày nay. Từ thê kỷ thứ 7 đến th ế kỷ 12,

văn hóa của họ phát triển rực rỡ, ngày nay ta còn thấy

những di tích tráng lệ như các đền Đê Thiên Đế Thích ở

Cao Man. Trong khi gặp làn sóng nam tiến của người

Việt Nam, người Chiêm Thành hoặc bị tàn sát, hoặc bị

đồng hóa cho đến gần diệt chủng, còn người Cao M an

15

thì phải bỏ miền Thủy Chân Lạp mà lui lên miền Hỏa

Chân Lạp. Hiện nay trong hơn 21 triệu dân ở Đông

Pháp, hơn 17 triệu là người Việt Nam ở khắp các miền

đồng bằng tự Nam Quan cho đến Cao Man là phần tử

trọng yếu của cõi Đông Pháp.

0 miền thượng du thì nhân chủng phức tạp lạ lùng,

ơ đồng bằng các nhân chủng đồng hóa với nhau dễ dàng

nên ngày nay hơi khó nhận ra đặc tính, chứ ở miền

thượng du thì các nhân chủng còn cách biệt rõ rệt.

Những giông xưa nhất, người ta căn cứ theo ngôn ngữ

tương tự mà gọi chung là giông Anh Đô Nê Điêng ở

khắp các miền rừng rú trên giải Trường Sơn và xung

quanh vùng Biển Hồ, người Ai Lao gọi họ là Khả, người

Việt Nam gọi họ là Mọi, người Cao Man gọi họ là Pnong.

Họ ở thành nhiều bộ lạc, văn hóa đơn giản lắm. Họ đã

bỏ dùng đồ đá từ lâu, hiện nay sinh hoạt bằng nông

nghệ và một ít thủ công. Phong tục và tín ngưỡng của

họ, một phần là theo tục truyền cố hữu, một phần là do

ảnh hưởng bề ngoài mà thành.

Các giốhg người Anh Đô Nê Diêng ấy xưa nay thường

bị giống người Thái lấn lướt để tranh địa bàn. Giốhg

người này đến ở Ản Độ Chi Na từ khi nào, hiện nay

chưa rõ, người ta chỉ biết rằng trong khi người Việt

Nam tiến từ trung châu Bắc Việt về phương nam thì họ

cũng tiến tự miền thượng du Ai Lao xuống phương nam.

Song đường nam tiến của họ ở Ai Lao phải theo những

thung lũng nhỏ hẹp không được rộng rãi thuận tiện như

đường nam tiến của người Việt Nam, cho nên lịch sử

của họ có nhiều chỗ gián đoạn mà không bao giờ cường

thịnh. Người Xiêm La tuy cũng giốhg Thái nhưng nhờ

16

gặp một xứ đồng bằng mà bành trướng được ra đến biển

cho nên lịch sử của họ rạng rỡ hơn lịch sử người Thái ở

Ai Lao nhiều, xem th ế lại càng thấy rõ ảnh hưởng của

địa lý đối với văn hóa vậy.

Gần đây, lại có nhiều giốhg người khác với giống Thái

mà cũng tự miền bắc tràn xuốhg. Họ làm ruộng trong

các thung lũng ở miền thượng du Bắc Việt, ở miền

Thượng Ai Lao và miền thượng du bắc bộ Trung Việt.

Hai giốhg trọng yếu hơn hết là người M án và người

Mèo.

IV. - NGƯỜI VIỆT NAM

Trong các giống người trên cõi Đông Pháp thì người

Việt Nam là trọng yếu hơn cả.

Theo tục truyền thì người Việt Nam là nòi giốhg Tiên

Rồng. Vua đầu tiên họ Hồng Bàng nước Xích Quỉ là Lộc

Tục, tức Kinh Dương Vương, một hôm đi ngoạn cảnh ở

hồ Động Đình thình lình gặp một người thiếu nữ nhan

sắc tuyệt vời tự xưng là Long Nữ, con gái của Động

Đình Quân. Lộc Tục kết duyên cùng nàng ấy sinh được

một con trai đặt tên Sùng Lãm, nốì ngôi cha làm vua

xưng là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy Âu Cơ là con gái Đế Lai, vua một

nước láng giềng, đẻ ra một lần trăm cái trứng, sau nở

thành trăm người con trai. Một hôm Lạc Long Quân nói

với Âu Cơ rằng: Tôi là giòng dõi long quân mà mình là

giòng dõi th ần tiên, ăn ở lâu vói nhau không thể được.

Nay trăm đứa con trai thì mình đem 50 đứa lên núi, còn

17

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!