Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Vay không có khả năng trả và biện pháp của cac ngân hàng từ giai đoạn thẩm định đến giai đoạn đáo
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
33
*Theo thành phần kinh tế
-DNNN
-DNNQD
-Hộ sản xuất
-Cho vay khác
(Nguồn báo cáo tín dụng các năm 2000,2001,2002)
Doanh số cho vay và doanh thu của ngân hàng No&PTNTTP Hà Nội trong năm
2001 tuy có tăng so với năm 2000 nhưng tốc độ tăng còn chưa cao phải sang đến
năm 2002 thì mới phục hồi và tăng trưởng ở mức rất đáng kể . Sở dĩ tăng dần lên
là do nền kinh tế đang phục hồi do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã
tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam tạo ra tâm lý lo sợ cho các nhà đầu tư
nước ngoài khiến cho họ xin rút giấy phép đầu tư làm ảnh hưởng trực tiếp đến các
ngành lắp máy xây dựng ... là những khách hàng đã có quan hệ với Ngân hàng, do
đó trong năm 2000 quan hệ với các khách hàng này còn quá ít, tình hình trả nợ
còn gặp nhiều khó khăn. Bước sang năm 2001 tình hình lại khó khăn hơn do nền
kinh tế nước ta tăng trưởng chậm kéo theo là giảm phát, Ngân hàng nhà nước liên
tục hạ trần lãi suất cho vay làm cho tình hình tài chính của các Ngân hàng thương
mại thêm khó khăn hơn. Cạnh tranh Ngân hàng trong năm 2000 bước sang năm
2001 gay gắt chưa từng có, các Ngân hàng thương mại quốc doanh dư thừa vốn
nên đua nhau hạ lãi suất cho vay và giành giật khách hàng, nhất là các doanh
nghiệp nhà nước lành mạnh. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động
của NHNo&PTNTHà Nội. Tuy nhiên nhờ sự nỗ lực của toàn bộ nhân viên trong
năm 2002 Ngân hàng đã đạt được kết quả đáng khích lệ .Trong năm 2002 doanh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
34
số cho vay của ngân hàng đã tăng 22.4% ,doanh số thu nợ tăng 2,5 % so với năm
2001. Kết quả đạt được đấy cũng cho thấy định hướng phát triển của NHNo
&PTNTTPHN trong những năm qua là đúng đắn. Đó là duy trì khai thác tối đa
quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh lành mạnh có các
quan hệ tốt từ trước nhưng không tập trung sức cạnh tranh để lôi kéo các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh mà chưa có quan hệ. Trong khi đó lại tập trung tiếp thị
để xây dựng quan hệ với khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy
nhiên xét về mặt dư nợ thì dư nợ của Ngân hàng liên tục tăng lên trong những năm
qua. Năm 2002 dư nợ tăng lên 21,3% so với năm2001 hay tăng 54,6 % so với năm
2000.
Mặt khác tỷ lệ dư nợ cho vay / tiền gửi của khách hàng cũng thường xuyên ở mức
70% (năm 2000 là 62,5%, năm 2001 là 64%, năm 2002 là 68%.) Điều này cho
thấy Ngân hàng không ở tình trạng ứ đọng vốn như hầu hết các Ngân hàng khác.
Trong đó tỷ trọng trung và dài hạn tăng lên rất nhanh từ 12,6% năm 2000 lên
29,4%năm 2001 và tăng nhanh vào năm 2002 là 37,2% tổng dư nợ
Dư nợ tín dụng và doanh số thu nợ đều tăng trong đó dư nợ trung và dài hạn tăng
đều còn dư nợ ngắn hạn lại giảm. Do chủ trương của Ngân hàng trong các năm
2001 trở về trước là mở rộng đầu tư tín dụng cho khối khách hàng là doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp liên doanh có nhu cầu chủ yếu đầu tư trung và dài hạn
vào máy móc thiết bị công nghệ và công nghệ máy móc. Tuy dư nợ ngắn hạn
giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao do Ngân hàng chuyên cho vay cá nhân nhiều về
mặt tiêu dùng đấy là do đặc thù của Ngân hàng.Tuy nhiên trong năm 2002 ngân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com